Hornsey và các đồng nghiệp đã khảo sát hơn 6000 người đến từ 27 quốc gia nằm trên cả 6 lục địa. Một nửa trong số đó là phụ nữ và độ tuổi trung bình của những người tham gia là 41 tuổi.
Người tham gia được yêu cầu trả lời câu hỏi về “một cuộc sống lý tưởng”. Dưới đây là bốn câu hỏi:
Nguyên tắc tối đa hóa (có nghĩa là đối với những điều tích cực, mọi người đều có xu hướng chọn càng nhiều càng tốt) đã dự đoán rằng, khi được hỏi những câu như trên, hầu hết mọi người sẽ lựa chọn mức độ hạnh phúc và tự do từ cao đến rất cao.
Thế nhưng Hornsey và nhóm của ông lại phát hiện ra rằng hầu hết mọi người đều không chọn mức cao nhất có thể. Trên thực tế, họ chỉ lựa chọn mức độ tương đương từ 70 đến 80 phần trăm. Ví dụ, họ nói rằng họ muốn mình thông minh nhưng lại không muốn trở thành thiên tài. Họ muốn được hạnh phúc nhưng không cần lúc nào cũng cảm thấy thế. Tóm lại, những người tham gia nghiên cứu đã mô tả rất chính xác “nguyên tắc đúng mức”: “Con người áp đặt mức trần nhất định đối với sự quan tâm về điều tốt đẹp mà họ mong muốn có trong một thế giới hoàn hảo.” (Hornsey và cộng sự, 2018)
Các nhà nghiên cứu sau đó chuyển sự chú ý sang một phát hiện mới khiến họ tò mò. Những người thuộc một nhóm các quốc gia có “nguyên tắc đúng mức” chân thật hơn so với những người thuộc nhóm các quốc gia khác. Cụ thể ở đây, người dân ở Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore và Hàn Quốc đã chọn mức độ lý tưởng (bao gồm hạnh phúc, tự do, thông minh và sức khỏe) thấp hơn gần 9 phần trăm so với mức được chọn bởi những người thuộc 21 quốc gia còn lại.
Các chuyên gia về văn hóa có thể mong muốn lý giải sự khác biệt bằng cách đề cập đến chiều hướng văn hóa (vốn không được bao hàm trong nghiên cứu) giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể. Nhưng Horsey và các đồng nghiệp lại chỉ ra rằng người thuộc hai nước theo chủ nghĩa tập thể là Indonesia và Philippines đã lựa chọn mức độ lý tướng cao bằng (thậm chí cao hơn) mức độ được chọn bởi những người thuộc các quốc gia theo chủ nghĩa cá nhân như Mỹ, Úc và Anh.
Theo như các tác giả của nghiên cứu, chìa khóa để giải câu đố này chính là mô hình tư duy chính thể luận được khắc sâu trong suy nghĩ của các quốc gia Đông Á có sự phát triển tôn giáo lâu dài như Phật giáo, Khổng giáo và Ấn Độ giáo. (Indonesia là quốc gia Hồi giáo và Philippines là quốc gia Cơ Đốc giáo).
Người có tư tưởng chính thể luận (coi con người là một thể thống nhất) tin rằng các ảnh hưởng mang tính chất trái ngược nhau dường như luôn tồn tại cùng với nhau trong một trạng thái tương quan tương tự âm và dương. Người ta không thể biết đến hạnh phúc nếu chưa trải qua nỗi buồn và ngược lại.
Họ cũng tin rằng những trạng thái cảm xúc luôn luôn thay đổi. Nếu hôm nay tôi cảm thấy buồn bã, có lẽ tôi sẽ cảm thấy vui vẻ vào ngày mai. Nếu tháng này tôi hoàn toàn khỏe mạnh, biết đâu tháng tới tôi có thể bị bệnh. Với cách suy nghĩ này, việc ngày hôm nay của tôi ra sao vốn không quan trọng bởi vì tất cả mọi thứ đều có thể và chắc chắn sẽ thay đổi trong tương lai.
Cuối cùng, những người có tư tưởng chính thể luận thường có cảm giác phụ thuộc vào nhau dựa trên vai trò xã hội và nghĩa vụ đối với người khác. Những người sống dựa vào nhau có thể không chọn mức độ hạnh phúc, trí thông minh và sức khỏe cao nhất bởi vì đó là dấu hiệu của sự non nớt và ngạo mạn.
Đối với họ, hạnh phúc, tự do, thông minh và sức khỏe chỉ nên ở mức độ vừa phải – dù vì lý do gì đi chăng nữa – cũng tốt hơn nhiều so với đạt được mức cao nhất.
Thế nào là đủ cho một thế giới vẹn toàn? Ở vài quốc gia, người ta không cần nhiều như những nơi còn lại trên Trái Đất.
Theo Psychology Today
Kim