Nam tước trên cây [1] ra đời như thế, có lẽ, một khác lạ trong văn chương đương đại, viết năm 1956-1957 bởi một tác giả ở tuổi ba mươi hai; một quyển truyện vuột ra khỏi mọi định nghĩa chính xác, y như nhân vật phóng từ cành sồi xanh sang cành minh quyết, luôn không thể nắm bắt, hơn cả một động vật hoang dã.
U mặc, Tưởng tượng, Phiêu lưu
Những quyển ấy, trên cùng kệ sách truyền thống, sẽ nằm cạnh những cải biên dành cho thiếu nhi từ những tác phẩm kinh điển về suy tư như Đôn Ki-hô-tê và Gulliver du ký; và như thế, là những quyển mà ở đó tác giả muốn quay về thuở ấu thơ để gieo mình trong trí tưởng tượng, bộc lộ một tình huynh đệ bất ngờ với những tác phẩm chất chứa ý nghĩa và luận thuyết, mà về chúng, hàng thư viện đã viết, song cũng bộc lộ việc trẻ em tiếp thu thông qua những tình huống và những hình tượng thị kiến không thể nào quên.
Điều hiện ra trong trẻo: đằng sau niềm vui thú văn chương của Nam tước trên cây, người ta cảm thấy sự hồi nhớ - đúng hơn, sự hoài niệm - về cái đọc ấu thơ, với vô số nhân vật và cảnh ngộ nghịch lý. Người ta cũng có thể tìm thấy trong đó một thụ cảm của các truyện kể phiêu lưu kinh điển, nơi một người phải giải quyết các nỗi gian khổ của một tình thế nhất định, của một cuộc tranh đấu với thiên nhiên (khởi đi từ một Robinson Crusoe bị đắm tàu trên một hải đảo hoang vắng), hoặc của một cuộc thách thức với chính mình, của một chứng cứ vượt khó (như Phileas Fogg chạy vòng quanh thế giới trong tám mươi ngày). Chỉ có điều ở đây chứng cứ, thách thức là điều gì đó phi lý và khó tin; không còn đồng nhất hóa với sự kiện nữa, vốn là quy tắc thứ nhất của các tiểu thuyết phiêu lưu, dù đó là cậu bé Mowgli được chó sói nuôi dưỡng nơi rừng xanh, hay chàng Tarzan hậu duệ lớn lên giữa các chú khỉ trên cây cối châu Phi.
Cái phông thế kỷ mười tám
Tuy nhiên, nó không là "chuyện kể triết lý". Voltaire và Diderot có một luận đề trí thức rõ ràng để cổ vũ thông qua sự u mặc của các sáng tác mang tính tưởng tượng của các ông, và chính cái logic của cuộc luận chiến ấy đã cổ vũ cấu trúc câu chuyện; trong lúc với tác giả Nam tước trên cây, hình ảnh tới trước, và câu chuyện sinh ra từ một lô gích gắn liền với việc khai triển hình ảnh và sáng tác mang tính tưởng tượng.
Nó cũng không là "tiểu thuyết lịch sử". Những kẻ quý tộc và những kẻ "khai sáng", những người Jacobin và những người Napoléon, chỉ là các hình bóng xinh xắn trong một vở kịch múa. Ngay cả những thái độ đạo đức (chủ nghĩa cá thể dựa trên ý chí, vốn thúc đẩy cuộc đời những Kẻ Chủ xướng) ở đây quy hồi như những chân dung biếm họa từ một tấm gương biến dạng. Nếu coi nó là "tiểu thuyết lịch sử", thì với tác giả, đó là đối tượng của một tình yêu bày tỏ không ngừng song biết là mình không thể thực hiện, bởi cây văn chương không trĩu nổi quả trái mùa.
Cảnh quan Liguria [2]
Truyện diễn ra trong một xứ tưởng tượng: Ombrosa (Bóng Râm), song chúng ta nhanh chóng nhận ra rằng Bóng Râm là một địa điểm bất định bên Bờ Liguria. Dựa trên các dữ liệu lý lịch của tác giả, chúng ta biết ông là người San Remo, đã trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở thị trấn nhỏ vùng biển này cho tới một thời gian ngắn sau Thế chiến II; những bài viết khác của tác giả cho thấy mối quan hệ với quê quán của ông được nuôi dưỡng bởi những ký ức hết sức xa xưa (một gia đình tiểu điền chủ lâu đời ở địa phương), gần gụi thiên nhiên (trong nhiều truyện kể của ông có nhân vật cha già, thợ săn giỏi, người trồng trọt đam mê, về lại ruộng đồng của mình sau khi đã đi nhiều nơi trên thế giới hành nghề nông học), một gia đình theo truyền thống thế tục, có tư tưởng Mazzini [3], gắn bó với chủ nghĩa duy lý thế kỷ 18 - 19: và chính từ đây mà nhiều yếu tố của quyển truyện không là kết quả của sự chồng gối văn hóa mà là một bộ phận cấu thành ra cái ký ức của tác giả (mà sau đó có lẽ được hòa nhập thêm một số câu chuyện địa phương).
Song toàn bộ cảnh quan địa lý và lý tưởng này đã chìm trong quá khứ: chúng ta biết rằng Bờ biển trong thời hậu chiến đã không còn có thể nhận ra, vì cái cách thức hỗn loạn với các khối nhà đô thị bị dồn nhét tới mức chúng biến thành một rừng xi măng; chúng ta biết rằng sự đầu cơ kinh tế và một chủ nghĩa khoái lạc dễ dãi đang thống trị quan hệ con người trong một bộ phận rộng rãi của xã hội. Thế nên, chỉ từ toàn thể các yếu tố này gộp lại mà chúng ta mới có thể rút ra căn nguyên trữ tình của quyển truyện, cú hích đầu tiên của sáng tác thơ ca. Khởi đi từ một thế giới không còn hiện hữu nữa, tác giả lui về một thế giới chưa bao giờ hiện hữu song chứa đựng các hạt nhân của những điều đã tồn tại và những điều hẳn đã có thể tồn tại, những phúng dụ về quá khứ, về hiện tại, những câu hỏi về kinh nghiệm của chính mình.
Cuộc kiếm tìm một đạo đức
Ngay cả phương hướng này cũng chỉ phớt qua, nó chưa bao giờ được đào sâu. Cậu bé lên trú trên cây muốn là một nhân vật bất tuân thủ, một kiểu Gian GiôngTố [4] trong cái bối cảnh giông tố trên toàn thế giới? Bài học đầu tiên mà chúng ta có thể rút ra từ quyển truyện: sự bất tuân thủ chỉ thu thập được ý nghĩa khi nó trở nên một phương pháp rèn luyện đạo đức nghiêm khắc và gian khổ hơn cái mà nó vùng dậy đối đầu. Song liệu chúng ta có đang đi quá xa trong việc chất chứa ý nghĩa cho một quyển truyện vốn luôn muốn là một sự đùa vui?
Tác giả nêu lên cho chúng ta nhiều điều như thể tất cả đều thực chất, song cuối cùng thì thực chất chỉ nằm ở hình ảnh mà ông đã đề nghị với chúng ta: một con người sống ở trên cây. Có phải đó là một phúng dụ về nhà thơ, về phương thức tồn tại lơ lửng trên thế gian của anh ta? Rồi đặc biệt, đó là một phúng dụ về sự "trùm chăn", hay ngược lại, về sự "dấn thân"? Thế thì chủ nghĩa duy lý thế kỷ mười tám được tái đề nghị như là một lý tưởng hiện hành, hay là bị trào biếm trong cùng một chiều hướng qua đó Ariosto [5] và Cervantes giễu cợt tính hiệp sĩ? Hoặc giả, phải chăng Cosimo muốn đề nghị một cuộc tổng hợp mới giữa lý tính và phi lý tính? Vậy thì thái độ của tác giả với Cosimo là thế nào?
Nó không là sự giữ khoảng cách biếm họa đượm sắc thái thương xót bi kịch mà Cervantes có với Đôn Ki-hô-tê, cũng không là sự tham dự lãng mạn được gạn lọc bằng một tinh thần tỉnh táo phê phán lạnh lùng mà Stendhal có với Fabrice del Dongo. Thật vậy, với ai muốn rút ra một đạo đức từ quyển truyện, có nhiều con đường mở ra, dù không người nào có thể chắc con đường đó là đúng đắn.
Điều mà chúng ta có thể chỉ ra như một yếu tố chắc chắn: cái gu của tác giả về các thái độ đạo đức, về một tinh thần tự xây-tự nguyện, về một chứng cứ nhân bản, về một phong cách sống. Và toàn bộ các điều này được gìn giữ gieo neo trên các trụ đỡ mỏng manh như cành nhánh cây xanh được sự trống không bao bọc.
Theo Chúng ta, Evan
Vũ Ngọc Thăng (dịch)
Chú thích
[1] Nam tước trên cây ra mắt năm 1957. Trong ấn bản năm 1965 dành cho học sinh trung học, được mời làm chủ biên, Italo Calvino đã viết lời giới thiệu dưới đây cho cuốn sách, với bút danh Tonio Cavilla. Bài dịch ở đây, tiêu đề do người dịch đặt, đã lược đi một đoạn trong đó tác giả đối chiếu Nam tước trên cây với một tác phẩm Italy khác, và cho rằng nó không chính xác là một sự "giễu nhại" tiểu thuyết lịch sử; cũng như coi nó như là một sự "xâm lấn đùa vui" vào lĩnh vực của một số sử gia Italy bạn bè của ông, đang nghiên cứu về thời kì Cách mạng Pháp, về những người khai sáng và những người Jacobin.
[2] Vùng bờ biển tây - bắc nước Italy.
[3] Giuseppe Mazzini (1805-1872): nhà yêu nước, triết gia, chính trị gia, được coi là một trong những cha đẻ của nước Italy thống nhất.
[4] Gian Burrasca: tên cậu bé nhân vật chính trong Il giornalino di Gian Burrasca (Nhật ký của Gian GiôngTố) của Vamba, bút hiệu của Luigi Bertelli (1858-1920), nhà văn, nhà báo người Italy.
[5] Ludovico Aristo (1474-1533): nhà thơ người Italy.
Thông tin thêm:
Italo Calvino (1923-1985) là một trong những nhà văn lớn nhất thế kỷ XX của Italy. Phần lớn tác phẩm của Calvino là kiệt tác, trong đó có bộ ba tiểu thuyết kỳ ảo về thời quá khứ với tên gọi chung Tổ tiên của chúng ta gồm: Tử tước bị chẻ đôi người (1952), Nam tước trên cây (1957), và Hiệp sĩ không hiện hữu (1959).
Nếu Nam tước trên cây kể về vị Nam tước Cosimo nhỏ tuổi quyết định chỉ sống trên cây, không đặt chân xuống mặt đất, để phản đối gia đình; thì Tử tước bị chẻ đôi người kể về vị Tử tước non nớt bị đạn súng thần công chẻ người làm đôi nhưng vẫn tiếp tục sống dưới hình dạng một nửa - một mắt, một lỗ mũi… và nụ cười một nửa nhọn như mũi kéo... còn Hiệp sĩ không hiện hữu kể về hiệp sĩ Agilulf chỉ tồn tại dưới hình dạng một bộ giáp rỗng không nhưng vẫn phục vụ quân đội của nhà vua Cơ đốc giáo với "ý chí và niềm tin vào sự nghiệp thần thánh".
Cùng với bộ ba này, một kiệt tác khác của Italo Calvino - Nếu một đêm đông người lữ khách... sẽ lần lượt được xuất bản ở Việt Nam thời gian tới.