Mika Waltari là nhà văn Phần Lan có văn nghiệp đồ sộ với hơn 100 tác phẩm được xuất bản, bao gồm ít nhất 30 tiểu thuyết, 20 vở kịch và 15 truyện vừa. Ông đã năm lần được trao giải thưởng văn học nhà nước của Phần Lan. Đặc biệt sự thành công của kiệt tác “Người Ai Cập – Quyền lực và tình yêu” đã khiến ông trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thế kỉ XX.
Sự kết hợp đầy hấp dẫn giữa lịch sử cổ đại huyền bí và triết lí nhân sinh
“Người Ai Cập – Quyền lực và tình yêu” là tiểu thuyết lịch sử gồm Mười lăm sách kể về cuộc đời danh y Sinuhe những năm 1390-1335 trước Công lịch. Sinuhe, nhân vật chính – người kể chuyện, là một đứa trẻ bị bỏ trôi sông, được vợ chồng thầy thuốc nghèo không có con mang về nuôi. Nhờ sự hướng đạo của cha, Sinuhe đã theo học nghề y để nối nghiệp cha, chữa bệnh cho người nghèo. Nhờ có đôi tay khéo léo và tài chữa bệnh, Sinuhe trở thành một danh y nổi tiếng, bạn và ngự y riêng của Pharaon Ekhnaton, bạn của tể tướng Horemheb, người sau này cũng trở thành Pharaon. Thế nhưng “những gì viết lên các vì sao trong ngày được sinh ra” đã đẩy đưa Sinuhe đến với biết bao thăng trầm, đau khổ và cuối cùng bị chính người bạn từ thuở hàn vi đuổi khỏi quê hương Ai Cập và sống hết cuộc đời ở chốn lưu đày.
Từ nơi bị giam lỏng ấy Sinuhe đã viết lại những nỗi đắng cay, oan nghiệt cũng như những hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời mình thành cuốn sách này chỉ để “cho mình” và cũng để “gột rửa mình”. Đó là điều mà Sinuhe tuyên bố ngay từ trang đầu cuốn sách:
“Tôi viết cuốn sách này cho mình, bởi vì sự hiểu biết như nước kiềm ăn mòn trái tim tôi và tôi đã đánh mất tất cả những niềm vui có được trong cuộc đời. Tôi viết cuốn sách này, bởi rượu đắng chát trong cổ họng mình. Tôi viết cuốn sách này, vì tôi đã không còn muốn vui thú với đàn bà và những vườn cây, ao cá không còn làm tôi thấy vui mắt.” Và “Cuốn sách này do Sinuhe, kẻ bị lưu đày, người khốn khổ nhất trong tất cả những người nghèo khổ ở Kemet, viết ra.”
Những kiến giải đắt giá về tình yêu của con người
“Người Ai Cập – Quyền lực và tình yêu” không chỉ lôi cuốn bởi cốt truyện hấp dẫn, logic mà còn bởi những bài học sâu sắc về trái tim con người – một trái tim vốn sinh ra là để yêu thương nhưng hằn xước vì những đắng cay cuộc đời. Trong bối cảnh những tranh giành quyền lực trong vương triều và những cuộc chiến tranh dã man, tàn bạo giữa các vương quốc vẫn nổi bật lên khát vọng yêu thương của con người, không chỉ là tình yêu nam nữ mà còn là tình bằng hữu cao cả.
Nổi bật trong tác phẩm là chuyện tình yêu giữa Sinuhe với kỳ nữ Nefernefernefer, với trinh nữ Minea xứ đảo Crete và với Merit, nữ hầu bàn quán rượu ở Thebes. Ba mối tình là những cung bậc tình yêu và bi kịch khác nhau đã được Waltari miêu tả một cách đầy cuốn hút bằng ba chương riêng (Sách thứ tư, Sách thứ bảy và Sách thứ mười một) trong tổng số mười lăm sách của tác phẩm. Nếu Nefernefernefer là ngã rẽ đau khổ của mối tình đầu non nớt, ngây dại với những rung động đầu đời – người để lại cho Sinuhe bài học rằng “đàn bà có bản tính của loài mèo, cũng rất thích đùa giỡn, vờn con mồi của nó và dùng vuốt sắc làm đau con mồi không biết chán” hay Minea là mối tình chớm nở tàn nhanh để Sinuhe đau đớn vụt mất tình yêu trong sự bàng hoàng hụt hẫng thì Merit là tình yêu cuối cùng của đời ông với tất cả những dịu êm như vỗ về sau bao cơn sóng cuộn. Sinuhe từng nói:
“Merit ạ, em là nhà của anh và là tổ quốc của anh. Em là bánh mì trong tay anh và rượu trong miệng anh. Em là người duy nhất trên thế gian khiến anh không còn cô đơn khi ở bên và anh yêu em vì điều đó.”
Ngoài ra chúng ta còn bắt gặp tình yêu đơn phương, vụng trộm của Horemheb với công chúa Baketaton, ham muốn nhục dục của quản gia hậu cung Mehunefer với Sinuhe, của Thái hậu Teje với quốc trượng Eje. Các mối tình chiếm một phần lớn và được miêu tả một cách cuốn hút trong tác phẩm cuốn độc giả vào thế giới thần thoại cổ đại đầy hấp dẫn.
Trong suốt cuộc đời Sinuhe, tình bạn giữa ông và hai Pharaon trong cuộc chiến vương quyền nghiệt ngã được tái hiện qua những thăng trầm lịch sử. Sinuhe đã từng nhận lệnh trở thành tai mắt của Horemheb, đi khắp nơi tìm hiểu về tiềm năng quân sự của các quốc gia lâu đời (Sách thứ tám) với niềm tin tuyệt đối về tình bạn, tình yêu và lòng trung thành tuyệt đối với đất nước mà không ngờ rằng chính nó đã biến ông thành một kẻ giết người thay vì làm một thầy thuốc chân chính.
Có thể nói, bên cạnh một Horemheb thèm khát quyền lực là một Ekhnaton hiền hòa với ước mong cải tổ Ai Cập thành một đất nước “tất cả mọi người đều bình đẳng, và trong trật tự thế giới mới sẽ không còn nô lệ và chủ nhân”(Sách thứ mười), Sinuhe tìm thấy tiếng nói chung và nguyện chiến đấu đến cùng với Ekhnaton. Thế nhưng, nghiệt ngã thay, khi thất bại của cuộc đấu tranh trở thành hiện thực, Ekhnaton chết sau khi uống phải chén thuốc độc do Sinuhe cay đắng pha dưới sự ép buộc của Horemheb. Sự ra đi của một người bạn để lại mùi máu tanh trên đôi bàn tay tội lỗi khiến Sinuhe ân hận đến cuối cuộc đời mình. Khi ấy ông đã giết người bạn thân của mình vì tin rằng đó là điều tốt nhất cho quê hương, rằng đó là cách duy nhất để kết thúc chiến tranh. Thế nhưng, sau này khi Horemheb đã lên nắm quyền, ông dần nhận ra người bạn sớm đã được mệnh danh là “con trai của diều hâu” đã không còn là cậu bé thời niên thiếu mà tất cả những gì ông thấy chỉ là kẻ đa nghi khát khao quyền lực và chiến tranh để rồi bị chính người mình tin tưởng đày đi xứ lạ. Sinuhe từ một trái tim ngây thơ giàu lòng trắc ẩn nhuốm màu tội lỗi để rồi lại trở về gột rửa những đau thương.
Bên cạnh tình yêu giữa người với người, tác phẩm còn thể hiện tình yêu vô bờ của Sinuhe đối với thành phố Thebes quê hương và đất nước Ai Cập của ông: “Ai đã từng sinh ra ở Thebes sẽ khát khao trở lại Thebes, bởi lẽ trên trái đất không có thành phố nào giống như Thebes” (Sách thứ nhất). Câu nói của Sinuhe “Ai đã từng một lần uống nước sông Nile người đó sẽ khát khao trở lại sông Nile. Nước ở bất cứ nơi nào khác không thể làm anh ta nguôi cơn khát” được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần như một “điệp khúc” trong tác phẩm thể hiện tình yêu cuồn cuộn chảy trong máu thịt với mảnh đất quê hương. Hình ảnh “Những túp lều đất, mùi phân súc vật và mùi khen khét của cá rán trong dầu” nơi những ngõ nhỏ của khu phố nghèo ở Thebes luôn hiện về trong tâm trí Sinuhe những lúc phiêu dạt nơi đất khách. Trước khi bị đày khỏi Ai Cập, Sinuhe nói: “Tôi không hề sợ cô đơn, vì cả đời tôi chỉ có một mình và sinh ra tôi đã cô đơn, nhưng trái tim tôi tan chảy vì buồn khi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ được nhìn lại Thebes, không bao giờ được cảm nhận lớp bùn mềm của đất Kemet dưới chân mình cũng như sẽ không bao giờ được uống nước sông Nile nữa.” (Sách thứ mười lăm).
Và, trước khi bị giải đi đày nơi xa xứ, Sinuhe chỉ xin Horemheb: “Tôi cũng muốn chào tạm biệt Thebes, đi dọc Đại lộ Nhân Sư một lần nữa và cảm nhận mùi nhang khói cúng thần linh trong những cột sặc sỡ của ngôi đền lớn và mùi cá rán vào lúc chập tối ở khu phố nghèo khi những người vợ nhóm lửa trước những túp lều đất sét và những người chồng đi làm về vai sệ xuống vì mệt mỏi.” (Sách thứ mười lăm).
Những triết lí nhân sinh sâu sắc
Mặc dù tác phẩm lấy bối cảnh ở Ai Cập cổ đại nhưng thông điệp của nó mang tính phổ quát và trường tồn với thời gian. Khi miêu tả chiến tranh và những biến động xã hội, tình bạn và tình yêu, Waltari đã thành công trong việc đúc kết những điều quan trọng nhất của con người. Hầu như ở chương nào, người đọc cũng được gặp những câu văn đầy tính triết lý.
“Xưa đã thế và sau này vẫn thế” là một sự đúc kết, chiêm nghiệm cuộc đời được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tiểu thuyết. Vũ trụ, vạn vật vô cùng rộng lớn, vận hành theo một quy luật khách quan chung không bao giờ thay đổi. Sinuhe nói: “Bởi vì con người về bản chất còn xấu xa, độc ác và tàn bạo hơn cả cá sấu ở dưới sông. Trái tim của anh ta cứng hơn đá. Sự hợm hĩnh của anh ta nhẹ hơn khói bụi. Hãy dìm anh ta xuống sông, khi quần áo khô cong, anh ta lại hệt như trước.” (Sách thứ nhất). Bởi vậy, đừng bao giờ thay đổi thế giới quanh ta mà hãy thay đổi chính mình, thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ của mình về cuộc đời. Mỗi người đều có những suy nghĩ, lối sống, tính cách và quan điểm sống khác nhau. Cũng giống như Sinuhe và Horemheb trong câu chuyện là bạn thân từ nhỏ nhưng mỗi người đều chọn cho mình một lối sống khác biệt để thực hiện ước mơ. Khi Sinuhe thuyết phục bạn mình với tín ngưỡng thần Aton, Horemheb đã bác bỏ và cho rằng đó là thứ “suy nghĩ ngớ ngẩn”. Cũng chính Sinuhe tiếp tục một mình lên án chế độ xã hội của Horemheb và đi khắp nơi truyền bá tư tưởng công bằng để rồi nhận lại sự kì thị và phỉ báng ngờ nghệch của người đời. Hay như Kaptah đã từng nói với Sinuhe: ““Hành động của con người giống như một hòn đá bị ném xuống nước. Nó bị rơi rất mạnh và nước bắn lên, nhưng sau một thời gian nước lại phẳng và không nhìn thấy đá. Ký ức của con người cũng giống như vậy.” (Sách thứ tư) để ông nhận ra Thành phố Thiên Đường và những triết thuyết về thần Aton của Ekhnaton chỉ là ước muốn hão huyền khiến cuộc chiến tranh đẫm máu xảy ra và chính Pharaon mất đi tính mạng.
Đến cuối cùng, thứ duy nhất làm con người hạnh phúc không phải là quyền lực, không phải là tiền bạc cao sang mà là tình yêu thương và lòng nhân ái – Đây là một triết lí được hầu hết các nhân vật nhận ra dù rõ ràng hay không, sau những cay đắng khổ đau. “Không có sự khác biệt giữa con người với con người, ai cũng trần trụi sinh ra trên đời và trái tim con người là thước đo duy nhất giữa người với người. Không thể đo con người bằng màu da hoặc ngôn ngữ của họ, cũng không thể đo con người theo quần áo hoặc đồ trang sức, và không thể đo con người theo sự giàu có hay nghèo khó của họ mà chỉ bằng trái tim.” (Sách thứ mười lăm) – Sinuhe nói với những người nghèo sau khi đã trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Ông đã nhận ra rằng: “có lẽ sự trả thù mê hoặc con người và vị của nó ngọt ngào, nhưng trong tất cả những bông hoa của cuộc sống, hoa trả thù nở bung và tàn nhanh nhất và đầu lâu người chết nhăn nhở cười, nhạo báng ta từ bên dưới cơn thèm khát trả thù” (Sách thứ mười) khi cố làm thỏa mãn sự thù hận của bản thân với Nefernefernefer nhưng thứ nhận lại là cảm giác trống vắng, tội lỗi. Hay như chính Horemheb khi đã thành công trở thành một Pharaon, thỏa mãn khát khao quyền lực bấy lâu nay, song hắn không hề hạnh phúc với cuộc hôn nhân như vũng bùn lầy cùng người vợ mang nặng nỗi căm ghét và một vọng lâu nhục nhã. Vậy chẳng phải người làm vua cũng như kẻ đang đi đày nơi biển Đỏ chẳng ai sung sướng hơn ai?
Khép lại những trang sách, bên cạnh những cảm xúc, suy tư lắng đọng về tình yêu, tình bạn, tình người, mỗi người đọc chiêm nghiệm ra những quan điểm nhân sinh cho riêng mình. Qua lời kể hấp dẫn, văn phong tả thực với những mô tả nhân vật hài hước nhưng đầy tinh tế và thâm thúy, tác giả Mika Waltari đã khiến cho tác phẩm trở thành một nguồn tư liệu lịch sử quý giá và đồng thời chứa đựng những quan điểm nhân sinh sâu sắc đúng với mọi thời đại.
Những giá trị sâu sắc của cuốn sách là lý do dù ra đời đã lâu nhưng “Người Ai Cập - Quyền lực và Tình yêu” vẫn là một trong số các tác phẩm kinh điển bán chạy nhất, trở thành Cuốn tiểu thuyết Phần Lan duy nhất được chuyển thể thành phim Hollywood; Được bình chọn là cuốn sách thế kỷ của Phần Lan 2017 và Được dịch sang 41 ngôn ngữ . Tạp chí The New York Times nhận xét cuốn sách là “Một bức tranh toàn cảnh sống động, thú vị về thời cổ đại của một người kể chuyện tài ba”.
Hãy cùng chúng tôi đọc và đồng hành cùng Sinuhe qua những vùng đất cổ xưa – nơi Thebes nhộn nhịp hay thành Babylon xinh đẹp, cảm nhận và chiêm nghiệm về cuộc đời con người tài hoa với số phận nghiệt ngã này nhé.