1/ Chúng ta là một quá trình tâm lý mà bản thân không kiểm soát được, hoặc chỉ điều khiển được một phần nhỏ. Do đó, chúng ta không thể đưa ra phán xét cuối cùng nào về chính mình hay về cuộc đời mình. Nếu có thể làm điều đó, tức là chúng ta đã biết hết mọi thứ - nhưng thực ra, điều đó chỉ là một sự tự dối mình. Thẳm sâu bên trong, chúng ta chẳng bao giờ biết mọi chuyện đã diễn ra như thế nào. Câu chuyện của cuộc đời bắt đầu ở đâu đó, tại một điểm nào đó mà ta tình cờ nhớ được; nhưng ngay cả khi ấy, mọi thứ đã vô cùng phức tạp rồi. Chúng ta không biết cuộc đời sẽ diễn tiến ra sao. Vì vậy, câu chuyện ấy không có khởi đầu rõ ràng, và cái kết cũng chỉ có thể được gợi mở một cách mơ hồ.
Cuộc đời của con người là một thí nghiệm đầy bấp bênh. Nó là một hiện tượng phi thường nếu chỉ về mặt con số. Vé mặt cá nhân, nó quá ngắn ngủi, quá mong manh, đến mức thật sự là một phép màu nếu bất cứ điều gì có thể tồn tại và phát triển. Tôi đã bị ấn tượng sâu sắc bởi thực tế đó từ khi còn là một sinh viên y khoa trẻ tuổi, và với tôi, thật là một điều kỳ diệu khi tôi không bị huỷ diệt quá sớm.
2/ Cuộc sống luôn hiện ra trước mắt tôi như một loài cây sống bám vào thân rễ. Cuộc sống thực sự của nó thì vô hình, ẩn trong thân rễ. Phần xuất hiện trên mặt đất chỉ tồn tại trong một mùa hè duy nhất. Rồi nó tàn lụi - một ảo ảnh thoáng qua. Khi chúng ta suy nghĩ về sự tăng trưởng và suy tàn không ngừng của cuộc sống và các nền văn minh, chúng ta không thể thoát khỏi ấn tượng về sự hư vô tuyệt đối. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ mất đi cảm giác về một thứ gì đó sống và tồn tại bên dưới dòng chảy vĩnh cửu.
Những gì chúng ta thấy là sự bừng nở, rồi lụi tàn. Nhưng thân rễ thì vẫn còn.
Sau cùng, những sự kiện duy nhất trong cuộc đời tôi đáng được kể lại là những khi thế giới bất diệt bùng nổ vào trong thế giới tạm bợ này. Đó là lý do tại sao tôi chủ yếu nói về những trải nghiệm nội tâm, trong đó tôi bao gồm cả những giấc mơ và ảo tưởng của mình. Chúng tạo thành chất liệu nguyên thủy cho công trình khoa học của tôi. Chúng là dòng dung nham bỏng cháy mà từ đó hóa thạch dùng cho chế tác kết tinh nên.
Tất cả những ký ức khác về các chuyến du lịch, con người và môi trường xung quanh tôi đã mờ nhạt so với những sự kiện nội tâm này. Nhiều người đã tham gia vào câu chuyện của thời đại chúng ta và đã viết về nó; nếu độc giả muốn tìm hiểu câu chuyện đó, họ có thể tìm đến những người khác hoặc nhờ ai đó kể lại. Sự hồi tưởng về các sự kiện bên ngoài trong cuộc đời tôi phần lớn đã mờ đi hoặc biến mất. Nhưng những lần gặp gỡ của tôi với "thực tại" khác, những cuộc chạm trán với vô thức, thì lại được khắc sâu trong ký ức tôi. Trong cõi ấy luôn có sự phong phú dồi dào, và mọi thứ khác trở nên vô nghĩa khi so sánh với nó.
4/ Một cách tự nhiên, tôi bù đắp cho sự bất an bên trong bằng một vẻ ngoài tự tin - hay nói đúng hơn, khiếm khuyết ấy tự bù đắp lấy nó mà không cần sự can thiệp của ý chí tôi. Tức là, tôi cảm thấy mình vừa có tội, vừa mong được vô tội. Ở nơi sâu thẳm trong nhận thức, tôi luôn biết rằng tôi là hai con người. Một là con trai của cha mẹ tôi, đi học và kém thông minh, ít chăm chỉ, kém gọn gàng và cư xử thiếu chuẩn mực hơn nhiều đứa trẻ khác. Người kia trưởng thành - thậm chí đã già rồi - hoài nghi, ngờ vực, xa rời thế giới loài người, nhưng gần gũi với thiên nhiên, với Trái Đất, Mặt Trời, Mặt Trăng, thời tiết, với mọi sinh vật sống, và trên hết là gần với đêm tối, với giấc mơ, và với bất kỳ thứ gì mà "Thượng Đế" hành động trực tiếp bên trong ông ấy. Tôi đặt "Thượng Đế" trong ngoặc kép ở đây. Bởi thiên nhiên, giống như chính tôi, dường như đã bị Thượng Đế để qua một bên như không mang tính thần thánh, dù được Ngài tạo ra như là một biểu hiện của chính Ngài. Không gì có thể thuyết phục tôi rằng "theo hình ảnh của Thượng Đế" dành riêng cho con người. Thực tế, tôi thấy rằng những ngọn núi cao, những dòng sông, hồ nước, cây cối, hoa lá và muông thú thể hiện bản chất của Thượng Đế tốt hơn nhiều so với con người - với quần áo kỳ quặc, sự nhỏ nhen, kiêu căng, giả dối và tính vị kỷ đáng ghét của họ - tất cả những đặc điểm đó tôi biết quá rõ từ chính bản thân mình, tức là từ nhân cách số một, cậu học sinh của năm 1890. Bên cạnh thế giới của cậu ta còn tồn tại một thế giới khác, như một ngôi đền nơi bất kỳ ai bước vào cũng đều bị biến đổi, và lập tức bị áp đảo bởi một thị kiến về toàn thể vũ trụ, khiến người ta chỉ còn biết trầm trồ, chiêm ngưỡng, quên cả chính mình. Ở đó sống "Người Khác," người biết Thượng Đế như một bí mật - vừa mang tính cá nhân, vừa vượt lên khỏi cá nhân. Ở đó không có gì ngăn cách con người với Thượng Đế; thực vậy, dường như trí tuệ con người nhìn xuống vạn vật cùng một lúc với Thượng Đế. Những gì tôi đang trình bày ở đây, từng câu một, là điều mà khi ấy tôi không ý thức một cách rõ ràng, nhưng tôi cảm nhận nó bằng một trực giác mãnh liệt và một cường độ cảm xúc không gì sánh được. Trong những thời khắc như thế, tôi biết mình xứng đáng với chính mình, rằng tôi đang sống như bản thể đích thực của mình. Mỗi khi tôi được ở một mình, tôi có thể chuyển hóa vào trạng thái đó. Do đó, tôi luôn tìm kiếm sự bình an và tĩnh lặng nơi "Người Khác" ấy, tức nhân cách số 2.
Sự giằng co qua lại giữa nhân cách số 1 và số 2, điều đã xuyên suốt cả đời tôi, không liên quan gì đến một "sự phân thân" hay phân ly theo nghĩa y học thông thường. Trái lại, đó là điều hiện diện trong mọi con người. Trong đời tôi, nhân cách số 2 giữ vai trò trung tâm, và tôi luôn cố gắng dành chỗ cho bất cứ điều gì muốn đến với tôi từ bên trong. Ông ta là một hình mẫu điển hình, nhưng rất ít người nhận ra sự hiện diện của ông ta. Hầu hết mọi người không đủ nhận thức để hiểu rằng ông ta cũng chính là một phần trong chính họ.
7/ Tôi đã thường thấy người ta trở nên rối loạn tinh thần khi tự thoả mãn với những câu trả lời không đầy đủ hoặc sai lệch cho các vấn đề của cuộc sống. Họ theo đuổi địa vị, hôn nhân, danh tiếng, thành công bề ngoài hay tiền bạc, và vẫn cứ bất hạnh, vẫn mắc bệnh ngay cả khi đã đạt được những mưu cầu. Những người như vậy thường bị nhốt trong một chân trời tinh thần quá chật hẹp. Đời sống của họ thiếu nội dung, thiếu ý nghĩa. Nếu họ có thể phát triển thành những cá nhân rộng mở hơn, chứng loạn thần kinh thường sẽ biến mất. Chính vì vậy mà ý tưởng về sự phát triển luôn ở tầm quan trọng hàng đầu đối với tôi.
Phần lớn bệnh nhân của tôi không phải là những tín đồ, mà là những người đã đánh mất đức tin. Những ai tìm đến tôi thường là "con chiên lạc". Ngay cả trong thời đại này, người có đức tin vẫn còn có cơ hội - trong chính nhà thờ của họ - để sống "cuộc đời biểu tượng". Ta chỉ cần nghĩ đến những trải nghiệm như Thánh Lễ, rửa tội, việc noi gương Đức Kitô (imitatio Christi), và nhiều khía cạnh khác của tôn giáo. Nhưng để có thể sống và trải nghiệm các biểu tượng cần phải có sự nhập cuộc sống động từ phía tín đồ, mà điều này thì thường không được người thời nay bận tâm, Ở người rối loạn tinh thần thì gần như luôn luôn thiếu vắng. Trong những trường hợp như thế, ta cần quan sát xem liệu vô thức có tự thân đưa ra những biểu tượng thay thế cho điều còn thiếu hay không. Nhưng rồi vẫn còn một câu hỏi: liệu người đó - người có những giấc mơ hay thị kiến mang tính biểu tượng - có thể hiểu được ý nghĩa của chúng và chấp nhận hậu quả mà chúng mang lại hay không?
8/ Từ những cuộc gặp gỡ với bệnh nhân - và với vô số hiện tượng tâm lý mà họ trình bày trước tôi bằng một dòng hình ảnh không ngừng - tôi đã học được rất nhiều điều, không chỉ là tri thức mà trên hết là những hiểu biết về chính bản thân mình. Và không ít trong số đó đến từ những sai lầm và thất bại của chính tôi. Phần lớn bệnh nhân của tôi là phụ nữ - những người thường tham gia vào quá trình trị liệu với sự tận tụy, hiểu biết và thông minh đáng kinh ngạc. Chính nhờ họ mà tôi có thể mở ra những con đường mới trong trị liệu.
Một số bệnh nhân của tôi đã trở thành môn sinh theo đúng nghĩa nguyên thuỷ của từ ấy - và họ đã mang những tư tưởng của tôi ra khắp thế giới. Trong số họ, tôi đã có những tình bạn kéo dài hàng thập kỷ.
Chính các bệnh nhân đã đưa tôi đến gần với hiện thực sống động của đời người đến mức tôi phải học được những điều thiết yếu từ họ. Những cuộc gặp gỡ với đủ loại người, trên đủ mọi tầng bậc tâm lý khác nhau với tôi là không gì sánh được, còn quan trọng hơn cả những cuộc trò chuyện rời rạc với các bậc tiếng tăm. Những cuộc trò chuyện sâu sắc và có ý nghĩa nhất đời tôi đều là những cuộc trò chuyện vô danh.
- Trích từ cuốn sách "Hồi ức, Giấc mơ, Suy ngẫm" của Carl Jung