Tham vọng
Bạn thử đoán xem tổ tiên chúng ta có bao nhiêu % là đàn ông? 50%? Sai rồi. Tổ tiên loài người có khoảng 67% là phụ nữ và 33% đàn ông. Để minh hoạ làm thế nào điều này có thể xảy ra, hãy tưởng tượng về một hoang đảo thời nguyên thủy chỉ có 4 người: Jack, Jim, Sally và Sonya. Do đó, dân số có 50% là nữ. Hãy giả định là Jack đẹp trai và giàu có, Jim xấu và nghèo. Vì vậy, Jack cưới được 2 cô kia. Con của Jack và Sally là Doug có tổ tiên 50% là nữ. Con của Jack và Sonya là Lucy. Nếu bạn tính cả Doug và Lucy với nhau, những tổ tiên kết hợp của họ là 67% nữ (vì toàn bộ tổ tiên của họ là Jack, Sally, Sonya).
Phụ nữ không cần phải tham vọng để sinh được con. Nhưng đàn ông có nhiều tham vọng sẽ có khả năng có nhiều con hơn những người thiếu tham vọng. Nhiều người đàn ông ngày nay có nguồn gốc từ những ông cha có tham vọng. Sự khác biệt trong khả năng sinh sản thành công đặc biệt quan trọng. Nó cung cấp nền tảng có hiệu lực để hiểu lý do tại sao đàn ông và phụ nữ hành động khác nhau.
Hầu hết những đứa trẻ được sinh ra ở Trung Á ngày nay đều có trong tĩnh mạch đôi chút dòng máu của Thành Cát Tư Hãn. Hàng triệu người đều có nguồn gốc từ một cá nhân. Đối với một người đàn ông tạo được ảnh hưởng sinh học to lớn lên một số lượng dân cư như vậy qua nhiều thế kỷ sau khi ông chết, những phẩm chất nào cần có ở người đàn ông này? Ông ấy phải hết sức tham vọng, tài năng, thành công. Ông ấy phải sẵn sàng chấp nhận những rủi ro và chịu đựng những gian khổ khốc liệt trong khi theo đuổi tham vọng.
Còn người đàn ông không quan tâm đến việc vượt trội hơn những người đàn ông khác, thoả mãn với sự dễ dàng và để người khác vượt qua mình (cách mà nhiều phụ nữ bằng lòng) thì những anh chàng đó ít có khả năng có hậu duệ.
Phụ nữ thì không có lý do gì để mạo hiểm và hy sinh. Ngay cả nếu một phụ nữ đi chinh phục thế giới thì cô ấy vẫn chỉ có thể có khoảng một tá đứa con. Nếu cô ấy dành nhiều thời gian trên lưng ngựa và ra chiến trường như Thành Cát Tư Hãn, rất khó để cô ấy có thời gian mang bầu một hoặc hai đứa bé. Khi cố gắng nhiều hơn thì phụ nữ vẫn không có phần thưởng. một phụ nữ không thể có hàng trăm đứa con. Nhưng một vài người đàn ông thì có thể.
Bạn có thể lập luận một cách triết lý rằng, lối sống nào được ưa thích hơn: ở nhà, an toàn và thoải mái, sống hết cuộc đời và không sinh con, chết bình an, đối lập với đi ra ngoài thế giới và có nhiều nguy hiểm và đau đớn. Nhưng cuộc sống nào được yêu thích hơn không phải là vấn đề. Con người ngày nay có nguồn gốc từ những người đàn ông dám mạo hiểm (và đã chiến thắng).
Nếu bạn nhìn vào những người thông minh nhất và ngu ngốc nhất, bạn sẽ thấy đàn ông chiếm số lượng nhiều hơn phụ nữ ở cả hai nhóm này. Hoặc những người có chiều cao quá cao hoặc quá thấp. Còn về tính cách thì sao? Các nhà nghiên cứu tại trường đại học Pennsylvania phát hiện thấy có nhiều đàn ông hơn phụ nữ có những điểm cực tốt và cực xấu : sự tử tế vs. độc ác, tò mò vs. bảo thủ, khôn ngoan vs. chưa trường thành, tự kiểm soát bản thân vs. nuông chiều bản thân, khiêm tốn vs. yêu bản thân. Điều này có thể được lý giải như sau:
Thử nghiệm tự nhiên theo cách ngẫu nhiên để tạo ra một phiên bản mới, tiến bộ của loài người. Nhiều thử nghiệm sẽ thất bại. Lấy ví dụ về trí thông minh, để trí thông minh tiến hoá, tự nhiên phải tạo ra sự kết hợp thay đổi của các gen để có được những phiên bản khác nhau của bộ não. Một vài sự kết hợp sẽ không hiệu quả và tạo ra những bộ não yếu kém. Nếu những cá nhân không thể thích nghi và cải tiến thì những cá nhân đó không nên truyền lại cho những thế hệ tương lai những bộ não yếu kém.
Thật khó để loại bỏ những đặc điểm xấu ở phụ nữ vì hầu hết phụ nữ đều sinh con. Trong khi đó, hầu hết đàn ông không sinh sản. Chỉ có những nguòi đàn ông thành công nhất mới có nhiều khả năng sinh con. Vì vậy, những thử nghiệm của tự nhiên được thực hiện trên đàn ông. Những gen xấu của đàn ông có thể biến mất, trong khi những gen xấu của phụ nữ có thể kéo dài đến nhiều thế hệ. Do đó, tự nhiên đạt được kết quả tốt hơn bằng cách thử nghiệm trên đàn ông hơn là phụ nữ. Những thử nghiệm xấu (tạo ra những bộ não kém) sẽ nhanh chóng bị xoá bỏ.
Trong công việc
Có một quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng phụ nữ làm việc nhiều hơn đàn ông. Nhưng điều này là sai. một nghiên cứu kỹ lưỡng gần đây kết luận rằng đàn ông và phụ nữ làm việc hầu như ngang nhau về số giờ làm việc, nếu bạn tính tất cả những kiểu công việc bao gồm việc nhà.
Quan điểm phụ nữ làm việc nhiều hơn đàn ông đến từ những nhà nghiên cứu nữ quyền phỏng vấn chủ yếu phụ nữ về việc họ làm việc bao nhiêu tiếng và chồng họ làm bao nhiêu tiếng. Những câu hỏi được thiết kế để làm cho phụ nữ có vẻ làm việc nhiều hơn. Có rất nhiều câu hỏi về công việc nhà nhưng lại có ít những câu về làm vườn và những việc khác mà đàn ông làm.
Có vẻ như mọi người đánh giá về công việc của họ ít đáng tin hơn. Mọi người thường nói rằng họ làm việc nhiều hơn thực tế. Mọi người đánh giá quá cao về thời gian làm việc của họ. một nghiên cứu của J.P.Robinson và G.Godbey hỏi mọi người làm việc bao nhiêu tiếng và sau đó yêu cầu họ ghi chép cẩn thận những việc họ làm mỗi ngày. Nhật kí hằng ngày của họ không phù hợp với thông báo chung họ nói. Vì những lý do nào đó, phụ nữ được đánh giá là làm nhiều hơn đàn ông khoảng 2h làm việc/một tuần.
***
Đàn ông sẽ chấp nhận mạo hiểm hơn phụ nữ để có mức lương cao hơn. Xã hội ở đâu cũng trả lương cao hơn cho những công việc nguy hiểm. Đó là một sự trao đổi: An toàn vs. Tiền bạc.
Theo thống kê của chính phủ Mĩ, đàn ông chịu trách nhiệm cho hơn 90% bằng sáng chế sản phẩm mới cho xã hội. Hơn 90% số người bị chết vì công việc là đàn ông. Họ sẵn sàng mạo hiểm trong những công việc nguy hiểm, cống hiến nhiều thời gian làm việc để theo đuổi những ý tưởng mới có thể hoặc không thể dẫn đến sự đổi mới.
Đàn ông thời quá khứ nổi tiếng về việc mất kết nối với những cảm xúc của họ. Để làm những công việc nguy hiểm, bạn phải đặt cảm xúc của bạn sang một bên. Trở thành một người đàn ông có nghĩa là bạn tập trung vào nhiệm vụ, không để những cảm xúc cản trở việc hoàn thành công việc. một lý do những xã hội truyền thống đặt những công việc đó vào đàn ông vì phụ nữ có thể quá sợ hãi để làm được.
Đàn ông có nhiều khả năng thương lượng để có mức lương cao hơn phụ nữ. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh điều này. Khi phụ nữ được nhận một mức lương đề nghị, họ có xu hướng chấp nhận nó. Còn với đàn ông, họ có xu hướng mặc cả thêm một ít. Đàn ông có nhiều khả năng tranh luận vì sao họ xứng đáng nhiều hơn. Đôi lúc họ thành công với tranh luận này, đôi lúc không. Nhưng nếu bạn không thử, bạn sẽ không bao giờ thành công.
Tất cả những điều trên phản ánh động cơ. Đàn ông muốn thành công hơn, họ làm việc lâu hơn, họ quan tâm đến tiền nhiều hơn, họ ra quyết định dựa trên tiền nhiều hơn, họ sẵn sàng hy sinh nhiều hơn để thành công.
Phụ nữ có tính xã hội nhiều hơn nếu bạn định nghĩa ‘tính xã hội’ chỉ trong quan điểm những mối quan hệ thân mật giữa 2 người gần gũi. Nhưng nếu bạn nhìn ra những nhóm lớn hơn thì đàn ông có tính xã hội cao hơn phụ nữ. Phụ nữ được ‘thiết kế’ dành cho những mối quan hệ nhỏ, thân mật mà ở đó con người kết nối một-một. Đàn ông được ‘thiết kế’ dành cho những nhóm xã hội lớn hơn mà ở đó có nhiều mối quan hệ với nhiều người.
Phụ nữ bộc lộ cảm xúc nhiều hơn đàn ông. Đàn ông thường giữ cảm xúc của họ ở bên trong và thậm chí phủ nhận chúng. Khả năng bộc lộ cảm xúc cao là tốt cho những mối quan hệ thân mật. 2 người bộc lộ cảm xúc của họ giúp họ hiểu nhau tốt hơn.
Nhưng khi ở trong những nhóm lớn, bộc lộ cảm xúc có thể làm bạn dễ bị tổn thương trước những đối thủ, họ có thể phát hiện và lợi dụng điểm yếu của bạn. Trong những giao dịch kinh tế, như mặc cả một cái áo hay một cái xe cũ, bộc lộ cảm xúc có thể làm suy yếu vị thế mặc cả của bạn. Để thực hiện chức năng hiệu quả trong một nhóm lớn, có lẽ là hữu ích hơn khi bạn giữ lại những cảm xúc của mình.
Khóc là một ví dụ khá hay. Khóc có thể rất hiệu quả trước ai đó yêu bạn, vì nó thu hút sự chú ý của người đó và gợi ra sự quan tâm và những động cơ để người đó giúp bạn (đó là lý do em bé khóc). Nhưng khóc cũng tiết lộ điểm yếu của bạn. Khóc trước sự hiện diện của những đối thủ hoặc kẻ thủ có thể khuyến khích họ tấn công bạn.
Bộc lộ sự sợ hãi cũng có thể hữu ích trong những mối quan hệ gần gũi, đặc biệt đối với những người không mạnh mẽ và cần sự giúp đỡ từ người khác. Nhưng trong một nhóm lớn, bộc lộ nỗi sợ có thể có nhiều mặt hạn chế. Nó tiết lộ yếu điểm của bạn trước kẻ thù và đối thủ. Ngay cả giữa những người bạn, nó có thể được xem là gây nguy hại cho nhóm. Khi những người lính chuẩn bị ra chiến trường, bộc lộ nỗi sợ sẽ mang lại điều tốt đẹp gì? Mỗi người đàn ông đang vật lộn để vượt qua nỗi sợ của chính anh ta để làm những gì phải làm. một người đàn ông bộc lộ nỗi sợ sẽ gây khó khăn hơn cho mọi người. Nó hạ thấp nhuệ khí của nhóm. Nếu một anh chàng bật khóc sẽ làm khó khăn hơn cho tất cả mọi người chuẩn bị ra chiến trường.
Sự tức giận là ngoại lệ, và đàn ông sẵn sàng bộc lộ cảm xúc này hơn phụ nữ. Sự tức giận có những lợi thế khi xử lý với những người xa lạ. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, bộc lộ sự tức giận trong suốt quá trình thương lượng có thể làm phía bên kia sẵn sàng thực hiện thỏa thuận hơn, hoặc chấp nhận một đề nghị ít có lợi hơn cho họ và có lợi hơn cho người tức giận.
Phong cách đàn ông có lẽ phù hợp hơn khi hoạt động trong một nhóm lớn. Trong một nhóm lớn, bạn phải nói thẳng thắn và trực tiếp những điều bạn muốn.
Sự công bằng là quan trọng trong tất cả những mối quan hệ xã hội, dù lớn hay nhỏ. Nhưng có 2 kiểu công bằng khác nhau. Các chuyên gia gọi đó là ‘equity’ và ‘equality’. Equality có nghĩa là đối xử với mọi người như nhau. Equity nghĩa là trao phần thưởng theo tỷ lệ đóng góp của mỗi người. Phụ nữ có xu hướng phân chia tiền theo kiểu ‘equality’ bằng nhau cho mỗi người. Đàn ông phân chia kiểu ‘equity’ nghĩa là người làm việc vất vả hơn và sản xuất được nhiều hơn thì nhận được nhiều tiền hơn. Cách nào là tốt hơn, công bằng hơn? 2 cách trên phản ánh những quan điểm về sự công bằng khác nhau. Bạn không thể làm cả 2 cách cùng lúc. Equity dựa trên những phần thưởng không ngang bằng, là sự đối lập với equality.
Những mối quan hệ thân mật có xu hướng hiệu quả nhất với equality. Vì có rất nhiều hình thức tương tác rất khó để biết ai làm nhiều hơn ai. một người kiếm được nhiều tiền hơn, người kia làm nhiều việc nhà hơn.
Nhưng trong những nhóm lớn thì equity hiệu quả hơn. Những tổ chức lớn trả lương cho mọi người khác nhau. Nếu trả lương theo kiểu equality, từ CEO đến công nhân đều bằng nhau thì sẽ không tạo được kết quả tốt.
Vì vậy, đàn ông thích equity – hiệu quả nhất trong những nhóm lớn. Phụ nữ thích equality – lý tưởng đối với những mối quan hệ thân mật.
Đối với nhóm càng lớn thì càng có sự cạnh tranh.
Đối với mối quan hệ thân mật: tại sao bạn lại muốn làm hơn bạn đời, cố gắng chứng tỏ bạn giỏi hơn, thông minh hơn,nhanh hơn, mạnh hơn cô ấy ở việc gì đó. Những sự cạnh tranh như vậy thường không làm mối quan hệ trở nên tốt hơn. Nhưng trong một nhóm lớn, chứng tỏ giá trị của bạn sẽ đi kèm với phần thưởng. Vì vậy, đàn ông được ‘thiết kế’ để thực hiện chức năng trong những nhóm lớn sẽ hướng đến sự cạnh tranh.
Những lợi ích của những mối quan hệ kiểu phụ nữ ít phù hợp hơn cho sự phát triển của nền văn hoá. Những mối quan hệ của đàn ông – những nhóm lớn làm việc với nhau và cạnh tranh với nhau, phấn đấu, thử nghiệm nhiều phát minh có thể giúp họ đánh bại đối thủ – dần dần thúc đẩy sự tiến bộ của nền văn hoá.
Quan niệm về bản thân
Phụ nữ thường xem bản thân và mô tả về bản thân theo quan điểm được gọi là những đặc điểm tập trung vào mối quan hệ với người khác. Bản sắc cá nhân của họ được gắn bó với những mối quan hệ xã hội.
Trong khi đó, đàn ông nhấn mạnh những đặc điểm làm họ vượt trội hơn người khác. Họ nghĩ về bản thân như những cá nhân riêng biệt hơn so với phụ nữ. Những quan niệm về bản thân của đàn ông tập trung vào bản thân như là cá nhân độc lập và độc nhất, và do đó đứng xa ra mọi người. Sẽ là sai lầm khi xem tính độc lập và độc nhất trong những quan niệm về bản thân của đàn ông như là một dấu hiệu cho thấy họ không có tính xã hội. Ngược lại, những đặc điểm đó phản ánh cách trở nên xã hội hoá của đàn ông. Những nhóm xã hội của đàn ông phát triển trở nên khác biệt, đàn ông chuyên môn hoá trong những vai trò khác nhau.
Nếu bạn nhìn vào những nhóm thành công nhất của thế giới ngày nay, ví dụ những tập đoàn lớn, họ đầy những con người vĩ đại, mỗi người thực hiện một công việc khác nhau. Tập đoàn là một hệ thống khổng lồ với những vai trò được chuyên môn hoá trong những nhiệm vụ khác nhau. Mỗi người thực hiện một nhiệm vụ khác nhau, thay vì mọi người cùng thực hiện một nhiệm vụ, cho phép mỗi người trở thành chuyên gia trong những việc anh/cô ấy làm. Để thành công trong một nhóm như vậy, một người cần trở nên khác biệt với những người khác bằng cách trau dồi một số khả năng và kỹ năng đặc biệt. Để thành công trong một nhóm lớn, bạn cần trở nên khác biệt. Đó là lý do tại sao những quan niệm về bản thân của đàn ông nhấn mạnh những sự khác biệt, trong khi những quan niệm về bản thân của phụ nữ tập trung vào những mối liên kết xã hội.
Người ta nghĩ rằng trở nên khác biệt với người khác nghĩa là xa rời mọi người. Nhưng đối với đàn ông, trở nên khác biệt là một cách để thuộc về những người khác,một cách để giữ vững vị trí của bạn trong nhóm. Nếu bạn là người duy nhất có thể chơi bass guitar hoặc tìm được nước hoặc bắt cá hoặc lập trình máy tính, họ không thể bỏ bạn được.
Một người mẹ không cần phải học chơi nhạc trombone để có được tình yêu của đưa con. Đứa bé và chồng vẫn sẽ yêu cô ấy mà cô ấy không cần phải biết chơi trombone. Và do đó, việc phát triển những kỹ năng chuyên môn hoá và những sự đóng góp độc nhất ít liên quan đến kiểu đời sống xã hội của phụ nữ.
Đàn ông không đáng yêu bằng phụ nữ. Việc phát triển những kỹ năng đặc biệt là một phần của lời giải thích. Nếu bạn là người duy nhất có thể chơi trombone thì ban nhạc sẽ giữ bạn lại bất kể bạn có đáng yêu hay không. Nếu buộc phải lựa chọn giữa ai đó được yêu thích nhưng không có những khả năng âm nhạc và ai đó xa cách và cục cằn nhưng có thể hát trombone, bạn nhạc sẽ luôn luôn lựa chọn người nhạc sỹ tốt hơn.
Tóm lại, đối với kiểu quan hệ xã hội đàn ông tạo ra, năng lực thường quan trọng hơn sự đáng yêu. Đặc biệt quan trọng với những khả năng tương đối hiếm và giá trị.
Khi giới truyền thông đưa tin về thảm hoạ, họ thường dùng cụm từ ‘có cả phụ nữ và trẻ em’ nếu họ có trong số những nạn nhân. Điều này có nghĩa là gì? Cách nói đó thể hiện quan điểm là sinh mạng của đàn ông ít giá trị hơn phụ nữ và trẻ em. Đàn ông được mong đợi là từ bỏ cuộc sống nhanh hơn và sẵn sàng và không phàn nàn nếu làm điều đó sẽ cứu được một phụ nữ hoặc một đứa trẻ. Thông điệp này được củng cố trong những phương tiện truyền thông khác. Hãy nghĩ về những bộ phim bạn đã từng xem. Có bao nhiêu cảnh bạn có thể nhớ mà trong đó phụ nữ hy sinh mạng sống của họ để cứu sống một người đàn ông. Trong đời sống thực tế, đàn ông được yêu cầu tuân theo kịch bản đó và chấp nhận giá trị kém hơn của họ.
Một trong những thảm hoạ nổi tiếng nhất thế kỷ 20 là chìm tàu Titanic. Những chỗ ngồi ở xuồng cứu hộ được ưu tiên cho phụ nữ, trẻ em. Đàn ông phải ở lại trên con tàu đang chìm.
Sự sinh sản là một chìa khoá. Một ít đàn ông và rất nhiều phụ nữ sẽ sinh ra nhiều trẻ em hơn là một ít phụ nữ và rất nhiều đàn ông. Vì vậy, nền văn hoá tối đa hoá số lượng phụ nữ sẽ thành công nhất trong trận đấu về dân số.
Nhiều nền văn hoá yêu cầu một cậu bé cần chứng tỏ bản thân trước khi anh ta có thể gọi mình là một người đàn ông. Những chàng trai trẻ phải giết được một con vật to lớn, cho dù đó là một động vật săn mồi nguy hiểm. Còn ở những nền văn hoá khác, các cậu bé phải chịu đựng những nghi thức là những bài kiểm tra thể chất đau đớn trước khi họ có thể được tôn trọng như những người đàn ông. Đàn ông được tạo ra, không phải được sinh ra và quá trình tạo ra đàn ông đầy thử thách và nguy hiểm.
Còn sự chuyển tiếp từ bé gái thành phụ nữ được xem là một quá trình sinh học của sự lớn lên và những thay đổi cơ thể. Nó là quá trình tự động và không thể tránh khỏi. Ngược lại, sự chuyển tiếp từ bé trai thành đàn ông là một sự kiện xã hội phụ thuộc vào những thành tựu và sự tôn trọng đạt được. một nghiên cứu ở đó mọi người được hỏi họ hiểu như thế nào khi ai đó nói rằng đã đánh mất bản sắc giới tính. Khi họ đọc được ai đó nói rằng anh ấy cảm thấy mình không còn là một người đàn ông, mọi người hiểu điều này nghĩa là anh ấy đã thất bại trong việc đạt được sự tôn trọng xã hội, ví dụ như không có khả năng hỗ trợ gia đình anh ta. Còn khi một phụ nữ nói cảm thấy mình không còn là một phụ nữ, họ nghĩ có lẽ cô ấy phải trải qua một sự thay đổi hoạt động tình dục. Như vậy, đàn ông là định nghĩa xã hội, phụ nữ là một thực tế sinh học.
Trong lịch sử phương Tây, nhiều đàn ông đọ kiếm, đấu súng để bảo vệ hình ảnh đàn ông của họ. Thuật ngữ ‘danh dự’ biểu thị sự tôn trọng, nó rất quan trọng đối với đàn ông. Nhiều người nghĩ rằng tham gia đọ kiếm là một cách để giải quyết bất đồng như thể bất cứ ai thắng thì được chứng minh là đúng. Điều này hầu như là sai lầm. Đàn ông tham gia đọ kiếm đơn giản chỉ để chứng minh danh dự. Đàn ông thường tự hào về những vết sẹo từ cuộc đọ kiếm của họ. Tại sao những vết sẹo từ cuộc đọ kiếm, đánh nhau thường là dấu hiệu của sự tôn trọng? Vì những cuộc đọ kiếm, đánh nhau đặt bạn vào nguy cơ bị tỏn thương thân thể, như là một cách thể hiện rằng bạn đáng gờm, không thể coi thường. Bằng cách tham gia vào cuộc đọ kiếm, đấu súng, bạn đã chứng tỏ rằng bạn xem danh dự, lòng tự trọng trên cả mạng sống.
Sản xuất nhiều hơn tiêu thụ
Phong trào nữ quyền cho rằng cuộc sống thật căng thẳng đối với phụ nữ. Một trong những nguồn gốc gây căng thẳng là phụ nữ bị đánh giá bởi những điều cô ấy không thể kiểm soát được, ví dụ như ngoại hình. Phụ nữ cùng lắm thì chỉ có thể thay đổi được quần áo, cách trang điểm và chế độ ăn kiêng. Nhưng cô ấy không thể thay thế được tuổi trẻ và sắc đẹp, và một phụ nữ thiếu những điều đó thì thực sự không thể đạt được chúng.
Còn đàn ông thì bị đánh giá bởi những điều thường nằm trong khả năng kiểm soát của họ. Về mặt nào đó, điều này tốt hơn phụ nữ rất nhiều, nhưng về những mặt khác thì nó cũng khó khăn. Người đàn ông liên tục phải vượt qua, chinh phục và chiến thắng.
Một phụ nữ vẫn là một phụ nữ cho dù cô ấy sản xuất (làm việc) hay tiêu thụ. Nhưng để trở thành đàn ông, người- sẽ trở thành đàn ông- phải sản xuất (tạo ra của cải) nhiều hơn anh ấy sẽ tiêu thụ. Tiêu chí đầu tiên là sản xuất đủ để chăm lo cho bản thân. một chàng trai trưởng thành không kiếm đủ tiền hoặc mang về đủ thức ăn để đảm bảo những như cầu của anh í thì không phải là một người đàn ông.
Tự hỗ trợ cho bản thân rõ ràng không phải là một tiêu chí để trở thành một phụ nữ. Nhiều phụ nữ trong lịch sử được hỗ trợ bởi đàn ông, và điều này không làm giảm quyền được tôn trọng của họ. Nhưng một anh chàng phụ thuộc vào người khác thì không hoàn toàn là một người đàn ông. Nỗi sợ phụ thuộc là nỗi sợ trở nên nhỏ bé hơn một ngừoi đàn ông. Chúng ta đã từng nghe rằng đàn ông đôi lúc lưỡng lự yêu cầu sự giúp đỡ, hỏi người lạ chỉ đường, hoặc cam kết với một mối quan hệ với một phụ nữ sẽ chăm sóc cho họ.
Tự hỗ trợ cho bản thân vẫn là chưa đủ. một người đàn ông phải sản xuất ra đủ để hỗ trợ anh ta và sau đó có dư thêm để hỗ trợ phụ nữ và trẻ em. Đó là lý do tại sao ‘trở thành một người chu cấp’ là trọng tâm trong cách phụ nữ đánh giá đàn ông và đàn ông đánh giá bản thân. Đàn ông cảm thấy tồi tệ khi không có khả năng chu cấp cho con cái hơn là khi không thể hỗ trợ cho bản thân.
Mất việc có nghĩa là anh ấy không thể sản xuất nhiều hơn anh ấy tiêu thụ. Ta không ngạc nhiên khi tình trạng rối loạn cương dương đôi lúc xuất hiện như là kết quả của thất nghiệp. Đàn ông không có việc làm cảm thấy bản thân họ nhỏ bé hơn đàn ông, và cơ quan sinh dục của họ ghi nhận sự đánh mất tính đàn ông đó bằng cách ngừng hoạt động.
Ai sẽ được lợi khi định nghĩa ‘đàn ông’ theo quan điểm sản xuất nhiều hơn tiêu thụ? Đó là nền văn hoá. Nền văn hoá sẽ được lợi khi tất cả đàn ông đều sản xuất nhiều hơn tiêu thụ. Xuyên suốt lịch sử, phụ nữ không sản xuất đủ để cho phép nền văn hoá vượt qua những đối thủ của nó. Nếu nền văn hoá muốn thắng thế trước những sự cạnh tranh to lớn, nó cần những người đàn ông tạo ra lượng của cải dư thừa.
Nếu nền văn hoá có thể thuyết phục hầu hết đàn ông sản xuất nhiều hơn tiêu thụ thì nền văn hoá sẽ trở nên giàu có. Của cải dư thừa sẽ được dùng để chăm lo cho những người không thể tự chăm sóc bản thân, bao gồm trẻ em, người già và người ốm. Thức ăn và tiền dư thừa có thể dùng để hỗ trợ những người lính để chống quân xâm lược và có thể chinh phục thêm một số mảnh đất bổ sung vào thu nhập quốc gia.
Mọi người thường nói, ‘Hãy là một người đàn ông’ chứ họ không nói ‘Này, hãy sản xuất nhiều hơn tiêu thụ’.
Đạt được sự vĩ đại tức là đóng góp điều gì đó cho xã hội. Không có ai được tôn trọng vì những gì anh ta nhận được. Sự tôn trọng từng là phần thưởng cho những gì anh ấy cống hiến. Để đạt được những điều vĩ đại, họ hầu như không thể sống một cuộc sống dễ dàng, tự nuông chiều và sung sướng. Khi những nhà lãnh đạo hoặc những người đàn ông sống lối sống thoải mái và dễ dàng đó, nền văn hoá sẽ ít có lợi. Nếu bạn muốn nhìn thấy ai đó với cuộc sống tự nuông chiều và dễ dàng thì đó sẽ không phải là người đàn ông ở đỉnh cao. Nếu có thể, hãy nhìn xem vợ con của những người đàn ông đó. Khuôn mẫu đó cũng đúng với ngày nay. Những người đàn ông ở đỉnh cao của nền văn hoá có thể tích lũy được nhiều của cải và có khả năng mua những ngôi nhà đẹp nhưng họ có rất ít thời gian để hưởng thụ nó, vì họ đang làm việc. Nhìn chung, nền văn hoá được lợi nhất khi những người đàn ông làm việc đam mê, vất vả để làm giàu cho văn hoá. Trở thành một người nghiện việc có nghĩa là bạn không hưởng thụ được những thành quả lao động của mình, nhưng vợ bạn thì có thể.
Tiền, phụ nữ và trẻ em
Các nền văn hoá có lợi bởi việc tạo nên của cải. Và xuyên suốt lịch sử, hầu hết của cải được tạo dựng bởi đàn ông. Nền văn hoá cần một phần của cải này được chuyển đến phụ nữ và đặc biệt trực tiếp hỗ trợ trẻ em, đại diện cho tương lai. Một số đàn ông vốn có xu hướng cống hiến tiền bạc của họ để chăm sóc con cái. Những người đàn ông khác dường như không có khuynh hướng này. Không có nền văn hoá nào cho phép đàn ông giữ toàn bộ của cải trong khi phụ nữ đang thiếu ăn. Phải có một số cơ chế để chuyển của cải từ đàn ông sang phụ nữ. Nhiều xã hội hiện đại làm điều này bằng cách đánh thuế đàn ông.
Sự giàu có được gia tăng bằng cách trao đổi và buôn bán. Phụ nữ sẽ mang lại điều gì để trao đổi của cải của đàn ông? Đặc biệt những phụ nữ không có nghề nghiệp và những kỹ năng có thể bán được.
Tình dục là một câu trả lời. Tôi thừa nhận đây không phải là một quan điểm lãng mạn hoặc lý tưởng về cách đàn ông và phụ nữ quan hệ với nhau. Nhưng nó được ủng hộ bởi rất nhiều bằng chứng. Mại dâm là một sự trao đổi rõ ràng về tiền bạc để có tình dục.
Lý thuyết kinh tế tình dục dựa trên quan điểm đàn ông muốn tình dục nhiều hơn phụ nữ. Kết quả của sự khác biệt này là đàn ông cảm thấy bản thân ở trong một vị thế yếu kém. Họ phải mang lại cho phụ nữ điều gì đó nhiều hơn là tình dục để khiến cô ấy quan hệ với mình.
Cho dù chúng ta nói đến mại dâm, hẹn hò, hôn nhân thì phụ nữ không phải trả tiền để có tình dục. Đàn ông thường không thể như vậy.
Sự trao đổi tiền bạc lấy tình dục, thông qua hôn nhân và những tục lệ khác là một trong những nền tảng của phần lớn các nền văn hoá. một lý do cho điều này là vì các nền văn hoá cần chuyển tiền từ đàn ông sang phụ nữ. Hôn nhân là một phương tiện hiệu quả để chuyển tiền từ đàn ông sang phụ nữ. Tình dục làm đàn ông sẵn sàng thỏa thuận kết hôn. Nhưng khi hôn nhân trở nên tồi tệ hoặc người vợ mất hứng thú tình dục, đàn ông có thể bắt đầu nghĩ rằng cuộc thỏa thuận này không còn tốt. Anh ấy muốn có một thỏa thuận mới với một đối tác mới (và tình dục mới). Nhưng nếu anh ấy bỏ vợ, ai sẽ chu cấp cho cô? Cụ thể là, nếu bỏ vợ con thì ai sẽ trả tiền để nuôi đứa bé trưởng thành, trở thành những công dân có ích giúp nền văn hoá tiếp tục phát triển?
Một số nền văn hoá xử lý vấn đề này bằng cách cấm ly dị. Nền văn hoá khác thì cho phép chế độ đa thê. Đàn ông có thể có vợ mới để thỏa mãn ước muốn tình dục nếu anh ta vẫn tiếp tục hỗ trợ tiền cho vợ cũ và đứa con. Giải pháp mà hầu hết các nền văn hoá đi đến là yêu cầu đàn ông tiếp tục chuyển của cải cho vợ cũ và con, ngay cả sau khi ly dị.
Xã hội hiện đại tán dương sức mạnh và giá trị của tình yêu. Những bài hát, bộ phim, sách và những nguồn khác không ngừng lặp đi lặp lại đề tài tình yêu sẽ kéo dài mãi mãi. Tự thân điều này khá kỳ quặc vì hầu hết nghiên cứu cho thấy dạng tình yêu lãng mạn, đam mê chỉ là giai đoạn tạm thời và có khả năng phai tàn theo năm tháng. Nhưng tưởng tượng về tình yêu vĩnh cửu là quan trọng. Vì hệ thống văn hoá thực hiện những chức năng tốt nhất nếu mọi người kết hôn và duy trì hôn nhân. Nếu một người đàn ông nhận ra những cảm xúc của anh í chỉ có tính tạm thời thì nó sẽ ngăn cản anh ta không ký cam kết lâu dài để chia sẻ tiền bạc với cô ấy mãi mãi. Nền văn hoá thúc đẩy niềm tin rằng tình yêu sẽ mãnh liệt và đam mê trong suốt phần đời còn lại, nhằm làm đàn ông đồng ý. Khi anh ấy đồng ý kết hôn là lúc tình yêu của anh đang dâng cao và chia sẻ tiền bạc với phụ nữ dường như là một cái giá hợp lý để có được cảm xúc tuyệt vời này (cộng thêm tình dục nữa) mãi mãi. Anh í không nhận ra rằng sự cam kết trả tiền này sẽ kéo dài lâu hơn những cảm xúc hân hoan của tình yêu đam mê.
Sự mất mát lớn nhất nếu thế giới thiếu đàn ông, đó là sự tiến bộ vì sự tiến bộ phụ thuộc vào những điều đàn ông làm: cạnh tranh, mạo hiểm, đổi mới, phát triển, xây dựng những thứ to lớn.
Đàn ông kể chuyện cười nhiều hơn phụ nữ và phụ nữ cười nhiều hơn đàn ông. Một thế giới không có đàn ông sẽ ít có người cười hơn.
Nhìn chung thì đàn ông không dễ thương, đáng yêu bằng phụ nữ. Nhưng họ sẽ làm mọi cách để phụ nữ tin là họ đáng yêu.
Theo yeutamly.com
Trạm Đọc