Đối với các nhà sử học về xã hội, di cư là thời cơ đặc biệt để nghiên cứu những đổi thay về mặt lịch sử vì di cư thường cung cấp những dữ liệu khả tín và phong phú về chất lượng; di cư là một loại chỉ số xã hội minh chứng cho sự thay đổi về chính trị và kinh tế, di cư để lại những dấu ấn trong tài liệu lưu trữ và ký ức tập thể - những thứ vốn ít tồn tại ở những cộng đồng ít dịch chuyển. Di cư như vậy có thể được vận dụng để mở ra một quan điểm xã hội về tiến trình và biến thiên của chính trị cũng như về xu hướng và sự tái thiết của kinh tế.
“Lao động di cư trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc” là thành quả hợp tác của các nhà Việt Nam học đến từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có 4 tác giả người Việt và 9 tác giả nước ngoài, với những phông lưu trữ phong phú ở Việt Nam, Tân-Calédonie, phông Lưu trữ Quốc gia Hải ngoại (ANOM), phông Công ty Le Nickel…
Cuốn sách này bao gồm ba phần, tương ứng với ba mục tiêu chính:
Mỗi chuyên khảo trong cuốn sách này xứng đáng là trang viết tỉ mẩn về một chương đoạn trong lịch sử kinh tế và xã hội Việt Nam: sự di cư của một cộng đồng gồm đàn ông, phụ nữ và đôi khi cả trẻ em, quá trình tổ chức di cư đó, từ tuyển mộ tới hồi hương, bối cảnh lao động và quản lý lao động. Cho dù điểm đến là một đồn điền ở Việt Nam, một hầm mỏ ở Tân-Calédonie hay một nhà máy ở Pháp thì những nghiên cứu này vẫn là đóng góp quan trọng cho lịch sử di dân và lịch sử lao động.
Và vì đó là những nghiên cứu về di dân nên chúng cung cấp một góc nhìn cơ bản về các biến cố lớn trong lịch sử thuộc địa của Việt Nam, đồng thời cung cấp tư liệu về tác động của cuộc chinh phục Việt Nam đối với người lao động, trải nghiệm qua các cuộc thế chiến và phi thực dân hóa cũng như những biến đổi về kinh tế của thuộc địa thời hiện đại. Tóm lại, cuốn sách đưa ra một cái nhìn tổng quan về kinh tế, xã hội và chính trị của các đế quốc, trong đó Việt Nam là một cấu phần đặc biệt.
Từ những cách tiếp cận khác nhau, dựa trên nguồn sử liệu phong phú, thông qua “Lao động di cư trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc”, một bức tranh rộng lớn về lịch sử di dân ở Việt Nam thời Pháp thuộc lần đầu tiên được phác họa một cách sáng rõ, góp phần mở ra một góc nhìn mới về sự cai trị của đế chế, đồng thời giúp cho độc giả thấy được cách thức mà đế quốc Pháp đã vận hành ở cấp địa phương và ở bình diện đa quốc gia, trong tương quan với những đế quốc khác là Việt Nam và Trung Hoa.
Cuốn sách phù hợp với mọi đối tượng độc giả, đặc biệt là các độc giả yêu thích tìm hiểu về Lịch sử Việt Nam nói chung và Lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc nói riêng.
Thông tin tác giả
ERIC GUERASSIMOFF là giáo sư dạy sử học hiện đại và đương đại Trung Hoa tại Đại học Paris và là nhà nghiên cứu ở CESSMA UMR IRD 245, hiện là đại diện ở Viện Nghiên cứu Đông Á của Pháp (l’Institut Français de Recherches sur l’Asie de l’Est, IFRAE). Các nghiên cứu của ông tập trung vào lịch sử di dân của người Hoa trên khắp thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh thuộc địa, mối quan hệ của họ với quá trình hiện đại hóa Trung Hoa ở đầu thế kỷ XX. Ông đã xuất bản Le
travail colonial. Engagés et autres mains-d’œuvre migrantes dans les empires, 1850-1950, Riveneuve, Paris, 2016 (cùng với Issiaka Mandé, UQAM), và “Concessionnaires et sous-traitants: Les intermédiaires chinois dans l’organisation du travail immigré en Malaisie, du début du XVIIIe au début du XXe siècle”, Revue de Synthèse (tháng 12 năm 2019, n0 140/1-2, tr. 85-134).
ANDREW HARDY là chủ nhiệm ban nghiên cứu lịch sử hiện đại và đương đại Việt Nam ở Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO). Thành viên của Trung tâm Đông Nam Á (CASE), UMR 8170, điều phối viên của Dự án Horizon 2020 ‘Competing Regional Integrations in Southeast Asia’ (www.crisea.eu). Các tác phẩm của ông tập trung vào những cuộc di cư của người Việt Nam, lịch sử của Champa và miền Trung Việt Nam. Các mối quan hệ liên sắc tộc trên bán đảo Đông Dương. Cùng với Arlo Griffiths và Geoff Wade, ông đã xuất bản: Champa: Territories and Networks of a Southeast Asian Kingdom, EFEO, Paris, 2019.
NGUYEN PHUONG NGOC là giảng viên, có tư cách chủ trì các nghiên cứu về Việt Nam tại Khoa Nghiên cứu châu Á của Đại học Aix Marseille và là thành viên của Viện Nghiên cứu châu Á (IRASIA, UMR 7306, CNRS-AMU) mà bà làm giám đốc từ năm 2018. Trong luận án À l’origine de l’anthropologie au Vietnam (Nguồn gốc nhân học ở Việt Nam) xuất bản thành sách năm 2012, bà đã nghiên cứu các nhà nhân học đầu tiên của Việt Nam như Nguyễn Văn Huyên, tiến sĩ Trường Sorbonne và thành viên của Viện Viễn Đông Bác cổ từ năm 1939 đến năm 1945 trước khi trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam [Dân chủ Cộng hòa, 1946-1975] suốt ba mươi năm.
Bằng cách tiếp tục nghiên cứu về giới trí thức và các nhà văn Việt Nam, bà đã bảo vệ lấy tư cách chủ trì nghiên cứu (HDR) bằng luận án có tên Recherche sur l’espace littéraire vietnamien (1900-1945). Bà cũng dịch các tiểu thuyết tiếng Việt sang tiếng Pháp như Giấc mộng con của Tản Đà (1917) và Tây phương mỹ nhơn của Huỳnh Thị Bảo Hòa (1927) được nhà xuất bản Decrescenzo ra mắt vào năm 2017 và 2020. Bản dịch của Tây phương mỹ nhơn kể về một chàng thanh niên người Việt đăng lính đi chiến đấu ở Pháp trong thời Đại chiến và cưới một cô gái Pháp. Bản dịch được hỗ trợ bởi tổ chức Pháp ngữ quốc tế (OIF) trong khuôn khổ dự án Tempo Traduction 2020.
EMMANUEL POISSON là giáo sư Việt Nam học của Đại học Paris và là nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Đông Á của Pháp (IFRAE).
Công trình của ông liên quan đến lịch sử về tri thức và bộ máy quan lại triều đình từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Đặc biệt, ông đã viết Mandarins et subalternes au nord du Vietnam (1820-1918) - une bureaucratie à l’épreuve (Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam (1820-1918): một bộ máy hành chính trước thử thách (1820-1918)), Đà Nẵng: nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006) và tái bản năm 2018 (Hà Nội: nhà xuất bản Tri Thức).