Tâm lý học của sự sẵn có: Bạn tin vào cảm giác hay dữ liệu?
Tâm lý học của sự sẵn có: Bạn tin vào cảm giác hay dữ liệu?
Hãy tưởng tượng nếu bạn được yêu cầu phải liệt kê tới 12 tình huống ứng xử quyết đoán (hầu hết mọi người thấy khó mà liệt kê đến con số 12), liệu quan điểm của bạn về tính quyết đoán của bản thân có thay đổi không?
Tư Duy Nhanh và Chậm (Tái bản 2022)
(2043 lượt)
Vào đầu những năm 1990, một nhóm các nhà tâm lý học người Đức, dẫn đầu là Norbert Schwarz đã đạt được một bước tiến lớn trong việc thấu hiểu phương pháp suy nghiệm dựa trên giá trị sẵn có khi khởi xướng một câu hỏi thú vị: Ấn tượng của bạn về mức độ phổ biến của một phạm trù sẽ bị tác động như thế nào khi bạn được yêu cầu liệt kê một số ví dụ cụ thể thuộc phạm trù đó? Thử tưởng tượng bạn là một chủ thể trong thí nghiệm sau:

Đầu tiên, liệt kê sáu tình huống trong đó bạn đã cư xử rất quyết đoán.

Tiếp theo, đánh giá xem bạn là người quyết đoán ở mức độ nào.

Hãy tưởng tượng nếu bạn được yêu cầu phải liệt kê tới 12 tình huống ứng xử quyết đoán (hầu hết mọi người thấy khó mà liệt kê đến con số 12), liệu quan điểm của bạn về tính quyết đoán của bản thân có thay đổi không?

Schwarz và các cộng sự đã quan sát và nhận ra nhiệm vụ liệt kê các ví dụ có thể củng cố các đánh giá về tính cách theo hai hướng khác nhau: 

  • Số lượng các ví dụ được gọi ra.
  • Chúng có dễ dàng xuất hiện trong đầu hay không?

Yêu cầu liệt kê mười hai ví dụ khiến hai phương diện này buộc phải “đấu trí” với nhau. Một mặt, bạn vừa phải nhớ lại về những lần bạn đã cư xử quyết đoán. Mặt khác, ban đầu bạn sẽ dễ dàng nhớ ra ba hay bốn ví dụ đầu tiên thể hiện tính quyết đoán, nhưng đến đoạn sau, bạn phải rất nỗ lực để tìm ra các ví dụ cuối cùng nhằm hoàn thành đủ 12 ví dụ, khả năng đưa ra các ví dụ một cách lưu loát là rất thấp. Điều gì quan trọng hơn – số lượng ví dụ hay cách xuất hiện của các ví dụ?

Cuộc cạnh tranh đã gọi tên kẻ chiến thắng: Những người liệt kê đủ 12 ví dụ tự đánh giá mình ít quyết đoán hơn những người chỉ liệt kê được 6 ví dụ. Chưa hết, những người tham gia thí nghiệm được đề nghị liệt kê 12 ví dụ cho thấy họ không hành động quyết đoán thì cuối cùng lại cho rằng họ là những người cực kỳ quyết đoán! Nếu bạn không thể dễ dàng đưa ra các ví dụ về cách cư xử nhẫn nại, thì khả năng cao là bạn đi đến kết luận rằng mình không hề nhẫn nại chút nào. Khả năng tự đánh giá bản thân về việc gì đó hoàn toàn bị chi phối bởi việc các ví dụ liên quan đến việc ấy có được gợi nhớ trong đầu óc của bạn một cách lưu loát hay không. Sự xuất hiện các ví dụ một cách lưu loát đã giành phần thắng áp đảo số lượng các ví dụ được gọi ra trong trí nhớ.

Vai trò của sự trôi chảy còn được một nhóm nhà tâm lý học khác trong nhóm chứng minh một cách trực tiếp hơn thông qua một thí nghiệm khác. Tất cả những người tham gia thí nghiệm này phải liệt kê ra sáu trường hợp hành xử quyết đoán (hoặc không quyết đoán), trong khi vẫn duy trì một kiểu biểu cảm trên khuôn mặt. Những "người tươi tắn” thì được hướng dẫn để điều chỉnh cơ gò má sao cho trông như đang nở một nụ cười nhẹ; những “người cau có” thì được yêu cầu nhíu đôi lông mày như đang khó chịu. Như bạn đã biết, việc nhăn nhó thường đi kèm với sự căng thẳng nhận thức và hiệu ứng xảy ra rất cân xứng: Khi một người được đề nghị nhíu mày trong khi làm một nhiệm vụ gì đó, thực tế cho thấy họ đã cố gắng hơn và cảm thấy căng thẳng đầu óc hơn. Các nhà nghiên cứu đã lường trước trong việc nhớ ra các trường hợp hành xử quyết đoán hơn và có thế vị được rằng những người nhíu mày có thể gặp nhiều khó khăn hơn đó mà tự đánh giá bản thân tương đối thiếu quyết đoán. Và đó chính là những gì đã diễn ra.

Các nhà tâm lý học vốn thích thú với những thí nghiệm cho ra các kết quả ngược đời và họ đã vận dụng khám phá của Schwarz với một sự hào hứng. Ví dụ, một số người:

  • Nghĩ rằng họ ít khi đi xe đạp thường xuyên sau khi nhớ lại rất nhiều lần đi đạp xe.
  • Ít chắc chắn về một chọn lựa khi họ được yêu cầu đưa ra nhiều lý lẽ ủng hộ lựa chọn đó.
  • Ít đảm bảo rằng có thể tránh một tai nạn sau khi liệt kê nhiều khả năng có thể tránh được tai nạn đó.
  • Ít cảm thấy bị ấn tượng bởi một chiếc ô tô sau khi liệt kê rất nhiều lợi điểm của nó.

Một giáo sư ở trường Đại học California đã tìm ra một cách tài tình để diễn giải những định kiến mang tính sẵn có này. Ông yêu cầu các nhóm sinh viên liệt kê danh sách những cách khác nhau nhằm giúp nâng cao chất lượng tiết học và ông đã đánh giá số lượng các gợi ý cải thiện đó. Đúng như kỳ vọng, những sinh viên liệt kê được nhiều cách cải tiến giờ học hơn thì đánh giá chất lượng tiết học cao hơn!

Có lẽ phát hiện thú vị nhất trong nghiên cứu về nghịch lý này đó là không phải lúc nào cũng có nghịch lý: Con người đôi lúc đánh giá dựa trên sự hài lòng chứ không dựa trên sự dễ dàng hồi tưởng. Bằng chứng là bạn thấu hiểu một khía cạnh nào đó của một hành vi là khi bạn biết rõ làm cách nào để đảo ngược kết quả. Schwarz và các đồng sự chấp nhận thử thách này để khám phá ra các điều kiện khiến cho sự đảo nghịch có thể diễn ra.

Các ví dụ về tính quyết đoán xuất hiện trong tâm trí của chủ thế tham gia thí nghiệm cũng thay đổi trong suốt quá trình diễn ra thí nghiệm. Những ví dụ đầu tiên xuất hiện rất nhanh, nhưng càng về sau, quá trình hồi tưởng càng trở nên khó khăn. Tất nhiên, chủ thế cũng có thể lường trước rằng dần dần sẽ khó mà lấy được các ví dụ một cách trơn tru, dễ dàng, nhưng sự khác biệt giữa việc phải lấy sáu ví dụ và 12 ví dụ dường như khó khăn hơn so với dự kiến của người tham gia. Các kết quả gợi ý một giả thiết rằng những người tham gia đã rút ra một suy luận: Không ngờ việc tìm kiếm những ví dụ thể hiện sự quyết đoán của tôi lại khó đến thế này, vậy thì hẳn là tôi không phải là một người quyết đoán. Lưu ý rằng suy luận này dựa trên một luận điểm bất ngờ - đó là khi chủ thế không dễ dàng gọi ra được ví dụ như họ kỳ vọng. Có thể nói một cách chuẩn xác hơn về phương pháp suy nghiệm dựa trên giá trị sẵn có mà các chủ thể áp dụng ở đây là phương pháp suy nghiệm “không lý giải được tính không sẵn có".

Schwarz và các đồng sự lập luận rằng họ có thể phá vỡ suy nghiệm ấy bằng việc cung cấp cho các chủ thể một cách giải thích liên quan đến sự lưu loát khi tìm các ví dụ. Họ nói với những người tham gia thí nghiệm rằng trong khi tìm các ví dụ, họ có thể nghe nhạc, và rằng âm nhạc có thể tác động tới hoạt động của bộ nhớ. Với một số người, thì các nhà khoa học nói âm nhạc có hiệu ứng tốt, với một số khác thì họ lại bảo âm nhạc có thể khiến quá trình lục tìm ký ức trở nên khó khăn hơn. Đúng như dự đoán, những người có quá trình lục tìm ký ức "được giải thích" đã không coi tính lưu loát như một suy nghiệm; những người được thông báo rằng âm nhạc có thể khiến sự truy vấn trở nên khó khăn hơn đều tự đánh giá bản thân là quyết đoán như nhau, cho dù họ đưa ra được 12 ví dụ hay 6 ví dụ. Các phép thử khác cũng đều cho ra cùng một kết quả: Các đánh giá không còn bị tác động bởi tính lưu loát hay trôi chảy trong quá trình lục tìm ký ức nữa, khi ấy tính lưu loát đã được giải thích bằng các yếu tố khác như ô thoại cong hay thẳng, màu của màn hình nền, hoặc những yếu tố oái oăm nào đó mà dù có nằm mơ các chủ thế cũng không thể nghĩ tới.

Như tôi đã từng miêu tả, quá trình dẫn đến việc đưa ra đánh giá nhờ tính sẵn có có thể liên quan tới một chuỗi lập luận phức tạp. Các chủ thể trải qua một giai đoạn mà quá trình lục tìm các ví dụ không “đầu xuôi đuôi lọt” từ đầu tới cuối. Hiển nhiên là ai cũng biết đến một số lượng ví dụ nào đó thì tính lưu loát sẽ bị suy giảm, mọi thứ diễn ra không như họ kỳ vọng: Càng lúc càng khó để nhớ ra tiếp những ví dụ mới. Chính sự thiếu trôi chảy một cách bất ngờ này khiến những người được yêu cầu kể 12 ví dụ đã tự mô tả bản thân là những người thiếu quyết đoán. Nhưng khi yếu tố bất ngờ được loại bỏ, tính lưu loát thấp không còn gây ảnh hưởng tới đánh giá của họ nữa. Quá trình này có vẻ như bao gồm một chuỗi các suy luận tinh tế. Liệu Hệ thống tự động số 1 có đủ khả năng đảm trách?

Câu trả lời là trên thực tế là không có bất cứ suy luận phức tạp nào được dùng đến. Một trong những đặc trưng cơ bản của Hệ thống 1 là có khả năng thiết lập các kỳ vọng và khả năng kinh ngạc khi những kỳ vọng này bị đe doạ. Hệ thống này cũng đưa ra các lý giải gây ra sự ngạc nhiên, thường thì bằng cách tìm ra một khả năng trong số những ngạc nhiên gần nhất. Hơn thế nữa, Hệ thống 2 có thể nhanh chóng điều chỉnh những kỳ vọng của Hệ thống 1, bởi vậy một biến cố trước đây có thể là một ngạc nhiên thì giờ đây trở nên rất đỗi bình thường. Giả sử bạn đã được cho biết trước rằng cậu bé hàng xóm ba tuổi thường đội một chiếc mũ chóp cao khi đi chơi. Bạn sẽ ít bị ngạc nhiên hơn khi thực tế trông thấy cậu bé với chiếc mũ kiểu cách trên đầu so với khi không hề có sự báo trước. Trong thử nghiệm của Schwarz, nhạc nền đã được nhắc đến như một lý do chính đáng cho sự trục trặc trong quá trình lục tìm ký ức. Sự khó khăn của việc gọi ra 12 ví dụ không còn khiến chủ thể ngạc nhiên nữa và do vậy nó ít có khả năng ảnh hưởng tới nhiệm vụ đánh giá tính quyết đoán của chủ thể. 

Schwarz và đồng sự đã khám phá ra rằng những người có vấn đề cá nhân đối với nội dung đánh giá sẽ có xu hướng coi trọng số lượng các ví dụ được gọi ra từ trí nhớ hơn, và ít bị ảnh hưởng bởi sự trôi chảy của quá trình tìm ví dụ. Họ tuyến hai nhóm sinh viên cho một nghiên cứu về các rủi ro đối với sức khỏe tim mạch. Một nửa số sinh viên xuất thân trong các gia đình có tiền sử bệnh tim và được kỳ vọng là sẽ thực hiện nhiệm vụ nghiêm túc hơn những sinh viên không có liên quan gì đến căn bệnh này. Tất cả đều được yêu cầu nhớ lại hoặc ba hoặc tám thói quen thường ngày ảnh hưởng tới sức khỏe tim mạch (một số được hỏi về những hành vi nguy hại, số khác thì về những hành vi ngăn ngừa). Những sinh viên mà gia đình không có tiền sử liên quan đến tim mạch thực hiện nhiệm vụ một cách bình thường và chịu ảnh hưởng của phép suy nghiệm sẵn có: Những sinh viên thấy khó có thể chỉ ra tám ví dụ về các hành vi nguy hại thì cảm thấy khá an tâm, ngược lại, những sinh viên khó tìm được các ví dụ ngăn ngừa thì lại cảm thấy nhiều nguy cơ. Trong khi đó, kết quả thu được từ những sinh viên mà gia đình có tiền sử bệnh tim thì ngược lại – họ cảm thấy an toàn hơn khi họ tìm ra được nhiều ví dụ về các hành vi an toàn và cảm thấy bị đe doạ hơn khi cố tìm về những ví dụ về các hành vi gây hại. Đồng thời, họ cũng có xu hướng cảm thấy việc đánh giá các nguy cơ hôm nay có thể ảnh hưởng tới đời sống sức khỏe của họ trong tương lai.

Kết luận được rút ra ở đây là sự thả lỏng khi các ví dụ xuất hiện thuộc về Hệ thống 1, nhưng sau đó, nó bị thay thế bằng sự tập trung vào nội dung tìm kiếm, đó là khi Hệ thống 2 tham dự vào nhiều hơn. Vô số bằng chứng có thể giúp ta rút ra kết luận rằng những người để mặc cho bản thân bị dẫn dắt bởi Hệ thống 1 là những người dễ phạm phải các định kiến mang tính sẵn có hơn so với những người ở trạng thái cảnh giác cao độ. Dưới đây là một số tình huống mà con người dễ “nhắm mắt đưa chân” và bị ảnh hưởng bởi khả năng tìm ra ví dụ một cách trôi chảy hơn là bị ảnh hưởng bởi nội dung của ví dụ:

  • Khi họ đang bận thực hiện một nhiệm vụ đòi hỏi sự nỗ lực lớn.
  • Khi họ đang trong tâm trạng tốt, ví dụ như vừa mới nghĩ tới một quãng thời gian hạnh phúc của cuộc đời.
  • Nếu họ đạt điểm số thấp trên “thang điểm thất vọng”.
  • Nếu họ hoàn toàn chỉ là những “tay mơ" trong một nhiệm vụ nào đó, ngược lại với những chuyên gia lão luyện.
  • Khi họ ghi điểm cao trên “thang điểm niềm tin vào trực giác".
  • Nếu họ là (hoặc ảo tưởng là) những người cực kỳ quyền lực.

Tôi nhận thấy trường hợp cuối cùng đặc biệt thú vị. Các tác giả giới thiệu về bài báo của mình với một câu trích dẫn nổi tiếng: “Tôi không phí thời gian thăm dò ý kiến của cả thế giới để nghe họ bảo hành động của tôi là đúng. Tôi chỉ cần biết cảm giác của mình là gì, thế là đủ.” (George W. Bush, tháng 12 năm 2002). Đó là những người đăng đàn để chứng minh rằng tin vào trực giác chính là một nét tính cách của họ. Chỉ nhắc nhở con người ta về thời kỳ họ nắm quyền lực trong tay cũng đã làm gia tăng niềm tin vào trực giác của bản thân họ.

- Trích dẫn từ cuốn sách “Tư duy nhanh và chậm”