Cha đẻ và cũng là người tiêu biểu nhất của thuyết Công lợi là Jeremy Bentham (1748 – 1832), một nhà triết học đạo đức và tái thiết xã hội. Triết học công lợi của ông giả định rằng tất cả mọi người mong muốn theo đuổi ý thích và phúc lợi, và tránh nỗi đau và bất hạnh. Giả định này là nền tảng của chuẩn mực đạo đức Công lợi.
Theo như triết lý này, những hành vi tạo nên hạnh phúc hay phúc lợi là đạo đức, trong khi các hành vi gây ra bất hạnh hay đau khổ là sai. Một tái bút quan trọng: không phải là hạnh phúc của một cá nhân quan trọng, mà là hạnh phúc của những người khác. Một hành động thực sự công bằng khi nó thúc đẩy hạnh phúc của nhiều người, không chỉ của một cá nhân cụ thể nào.
Lấy ví dụ việc giết người, mặc dù có thể tạo nên hạnh phúc của một kẻ sát nhân – đó sẽ là kết thúc của tất cả hạnh phúc của nạn nhân và gây nên nỗi đau và sự đau khổ khôn tả cho gia đình và bạn bè nạn nhân. Theo logic của thuyết Công lợi, việc giết người sẽ là sai đạo đức vì nó không thúc đẩy khả năng lớn nhất của hạnh phúc.
Nhưng mọi chuyện sẽ khác khi ta nói về việc một tên độc tài tồi tệ bị sát hại: theo nguyên tắc của thuyết Công lợi, nếu vụ ám sát Hitler vào ngày 20 tháng Bảy, 1944 thành công, đó sẽ là việc làm hợp đạo đức bởi cái chết của Hitler sẽ có thể làm cho rất nhiều sinh mạng được cứu thoát.
Một trong những chỉ trích lớn nhất đối với thuyết Công lợi quan tâm về khả năng ứng dụng của nó. Càng nhiều người chịu ảnh hưởng bởi hành động của tôi, càng khó khăn hơn cho tôi trong việc đánh giá cảm quan tương lai về nỗi đau và hạnh phúc. Những quyết định chỉ ảnh hưởng một nhóm nhỏ (“Tôi có nên giúp đỡ một ông già qua đường hay không?”) là khá đơn giản để đánh giá với thuyết Công lợi. Tuy vậy, những quyết định ảnh hưởng tới hàng triệu người (“Chính sách giáo dục nào sẽ thúc đẩy khả năng hạnh phúc lớn nhất?”) có hậu quả phức tạp hơn nhiều. Bởi vì sẽ gần như bất khả thi để có thể đưa ra một tiên đoán đáng tin cậy về việc một quyết định sẽ ảnh hưởng thế nào tới cân bằng cuối cùng giữa hạnh phúc và nỗi đau.