Cần phải nói thêm rằng, Nguyễn Việt Hà là mẫu nhà văn mà chúng ta không nên bàn nhiều về những quan niệm, những diễn ngôn cụ thể, rồi thô bạo gò vào một vài “khung lý thuyết” tân thời và yên tâm với một vài kết luận. Điều quan yếu là phải nhìn ra cách nhà văn thể hiện và dung hòa chúng trong nghệ thuật tiểu thuyết của mình. Đọc Cơ hội của Chúa, Đoàn Cầm Thi từng nhận định “tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà là một lò thử nghiệm văn phong khổng lồ” (Cơ hội của Chúa: từ nhật ký đến hậu trường văn học, 2006) thì tới Tuyệt không dấu vết, cái văn phong ấy đã thành tựu ở phiên bản hoàn thiện nhất của nó. Đó là thứ ngôn ngữ tiểu thuyết được cá nhân hóa, điển hình hóa triệt để, gần như san định thành một lối bạch thoại của thị dân Hà Nội. Chính anh vừa là một cá nhân vô thức trong cộng đồng, một “native speaker”, vừa là một “nhà ngữ pháp” vạch ra những quy phạm, những cấu trúc bề sâu của cái hệ thống ngôn ngữ sinh động ấy. Và cuộc khảo thí ngôn ngữ ở quy mô tiểu thuyết này đã từng bước đặt Nguyễn Việt Hà vào một vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam đương đại.
Câu chuyện của Tuyệt không dấu vết quả nhiên vẫn được đặt trong lòng Phố, trong lòng cái Hà Nội âm trầm “sóng lớp phế hưng” - với tất cả những đặc tính cốt lõi trở đi trở lại trong các tác phẩm của anh. Nói theo ngôn ngữ sách giáo khoa, Phố là một chủ thể trữ tình, một “sợi chỉ đỏ xuyên suốt”, kiến tạo nên sinh quyển tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Chỉ có điều, Phố ở trong Tuyệt không dấu vết dường như được xóa mờ đi ranh giới của một thực tại đời sống đô thị cụ thể, để dễ bề lùi vào hậu cảnh, phục vụ cho ý đồ tạo dựng hiệu ứng “trinh thám-kiếm hiệp” của tác giả. Ngay ở những dòng đầu tiên cái không-thời gian ấy đã mang đầy dấu vết ngụy tạo: “Phố nửa như đang Thu, nửa như đang Xuân, nên chắc là mùa Đông. Người đi trên phố nửa quê nửa tỉnh nửa cao bồi, rất hiếm cao thủ. Gió lạnh hoang mang mưa, trời rét như cắt da cắt thịt. Ngày xưa, cũng chưa xưa lắm, người ta lãng mạn gọi là rét ngọt. Ngày nay tàn bạo hơn, gọi là rét hại. Ngày xưa người ta chống rét bằng cách cầm tay nhau, cùng lắm là hôn nhau. Còn bây giờ, nhà nghỉ đã nhiều hơn quán rượu”. Thông qua biểu dụ “giang hồ”, lại là một thứ “giang hồ thời mạt”, Phố bỗng phát vãng đến độ hoang đường như thế. Nhưng cũng chẳng lấy gì làm xa lạ, người đọc gần như cùng lúc sẽ nhận ra ngay những chỉ dấu lồ lộ của một đời sống chạng vạng thành thị quen thuộc, nơi mà “Thập loại chúng sinh luôn tự nghĩ đang mang đủ loại trọng bệnh, nườm nượp chen nhau tới cửa Phật. Có bệnh đến từ đắc thời, có bệnh đến từ thất thế. Rồi ngoại tình, rồi vỡ tình, rồi thất tình. Có ung thư muộn giai đoạn cuối, có mới làm quan giai đoạn đầu, cửa chùa từ bi rộng mở chữa tất”. Dày đặc tâm linh nhưng hoàn toàn thiếu vắng đức tin, ấy là căn bệnh trầm kha của “thời mạt”. Và khi chẳng biết bám víu vào đâu thì, “má mì cũng giống như quan chức, thường rất khó hạ cánh an toàn” và các “sồn sồn thiếu phụ” cũng nườm nượp đốn ngộ ưng vô sở trụ chẳng khác Huệ Năng Lục tổ ngày trước là mấy. Ngỡ tưởng đây là “buổi hoàng hôn của các thánh thần”, cái cảnh giới mà Nietzsche đã nghiền ngẫm tổng kết
cũng hoàn toàn ăn nhập với cái “Hà Nội muôn đời sâu sắc lãng mạn là nhờ hoang đường, dịu dàng phù phiếm là nhờ hoang tưởng” này hay sao?
Tôi cho rằng, Nguyễn Việt Hà không chủ định tạo dựng nên một thứ tựa như “huyền thoại phố phường” nhưng bản thân những cấu phần câu chuyện được kể lại, tự nó đã mang tính huyền thoại. Như một thói quen thăm dò thời đại, các cuốn tiểu thuyết trước của anh luôn song hành một mạch truyện lịch sử. Ở đây, dường như cái mạch lịch sử ấy được kéo về tiệm cận, gần như đồng hiện ở trong mạch đương đại. Những “người muôn năm cũ” của một thời giang hồ đầy tráng khí được tái hiện qua loạt hồi tưởng đan cài của các nhân vật thuộc nhiều thế hệ. Đáng kể nhất trong ấy, và mang tính biểu tượng thời đại, là văn sĩ Đức Trọng - ông nội Thám tử - một nhà văn “chuyên viết truyện trinh thám lẫn kiếm hiệp, lứa đàn em của văn sĩ lừng danh Phạm Cao Củng”, “từng làm báo cùng ông Vũ Bằng, ông Ngọc Giao”, có giao hảo với “một ông nhà thơ hom hem, có tên trong tập khảo luận lừng danh của Hoài Chân - Hoài Thanh”. Theo đó, ông là “cha đẻ” của nhân vật thám tử Michel Phát Kỳ viết từ hồi Pháp thuộc và rồi đây người cháu đích tôn - Nguyễn Ngọc Tuấn sẽ tiếp tục nối nghiệp ông nội, trước tác chính cuộc đời mình thành một hình mẫu thám tử. Dễ thấy, “Tuấn còn được tử tế sống, còn minh mẫn biết uống whisky, hoàn toàn là nhờ ông nội”. Cảm hứng lịch sử được di dưỡng ở trong những mạch ngầm như vậy, không cần rạch ròi tách biệt thành một tuyến riêng, vừa đủ giữ cho Tuyệt không dấu vết một làn sương hư ảo cần thiết.
Từ đây, quá trình điều tra vô hình trung biến thành một cuộc thăm dò tiềm thức của chính Thám tử. Theo suy lý thông thường, thám tử đương nhiên phải là kiểu nhân vật tỉnh táo, mẫn tiệp bậc nhất. Vậy một vụ án sẽ đi tới đâu khi căn cước của chính người phá án cũng bị nghi ngờ? Về mặt hiện tượng, nhân vật Tuấn thám tử ở đây cũng chẳng hoang đường hơn Sherlock Holmes trong truyện của Conan Doyle, Sở Lưu Hương trong “chưởng” của Cổ Long, hay thậm chí là Hoàng là Nhã trong Cơ hội của Chúa. Điểm khác biệt chỉ xuất hiện khi Nguyễn Việt Hà đặt nhân vật của mình vào một trạng thái tinh thần hoàn toàn khác. Thám tử Tuấn là người không bao giờ mơ, nhưng cuối cùng có vẻ như anh ta cũng đang trong một giấc mơ, và trong giấc mơ ấy lại mơ là mình đang mơ tiếp một giấc mơ khác... Nỗ lực “bơi ngược dòng” để tìm đến một thực tại chắc chắn của nhân vật Thám tử khiến người đọc không thể không liên hệ đến dự án triết học của Descartes ở thế kỷ XVII - đi tìm một điểm tựa duy lý vững chắc cho suy tưởng của con người - một vấn đề nhận thức luận (epistimology) bản lề trong triết học phương Tây Hiện đại. Nôm na hơn, nó thường được minh họa bằng điển tích “Trang Chu mộng hồ điệp” trong sách Trang tử: “Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu”. Đó cũng chính là băn khoăn căn bản về một thực tại “u u minh minh” đeo bám vào cốt truyện: “Thực tại bản lai vốn là ảo hay là thật, hay đúng chỉ là một giấc mộng lớn”.
Trong ngữ cảnh nửa mê nửa tỉnh này, đối trọng với những ảo ảnh mộng mị nơi tuyến nhân vật Thám tử-Lãng tử-Thiếu phụ lại chính là sự tỉnh táo bất thường ở Bách (và đâu đó cả ở nhân vật đệ tử Tuấn Anh) - người bạn thân thiết lâu năm của Thám tử. Bách - sĩ quan an ninh, xuất hiện lạnh lùng chớp nhoáng qua những cuộc gặp. Người đọc cũng không biết gì thêm về hành tung của nhân vật này ngoài việc nhận thấy cuối cùng, mối quan tâm ở anh ta là chiếc cặp Samsonite chứa “sinh mệnh chính trị của biết bao nhiêu người cao quý” - một vấn đề “thuần túy chuyên môn”. Tỉnh táo sắc sảo là thế, không ngạc nhiên khi Bách chính là người “giải ảo”, mở ra lối thoát cho những chập chờn nghi hoặc liên miên không hồi kết. Nhưng cũng theo một cách cũng hoang đường chẳng kém, anh ta dụng công đọc hết Thành duy thức luận - hệ thống siêu hình học cơ bản của Phật giáo, lấy đề tài là toàn thể kinh nghiệm của Tâm Thức con người - để “vạch mặt” người bạn thám tử của mình: “...Không phải là Freud đâu, chính những đại sư tông Duy Thức mà cậu vô cùng thích đã phân tích như thế. ‘Lãng tử’ chỉ là bản phô tô đầy lỗi phóng chiếu từ tâm thức đã bị tẩu hỏa nhập ma của một người thích diễn vai thám tử”. Cùng với đó, hai cô nhà báo “số 7”, tiểu thư “số 9” “đều là bệnh nhân tâm thần phân liệt”. Tới đây, một câu hỏi rốt ráo phải được đặt ra: “Cứ cho là thám tử đã bịa ra Lãng tử, vậy ai đã bịa ra Thám tử”? Có lẽ để giải đáp câu hỏi này, ở hồi thứ hai mươi, hồi cuối cùng của tiểu thuyết (“Tứ cú”), Nguyễn Việt Hà đã để cho Thám tử lần đầu tiên xuất hiện với tư cách một chủ thể xưng “Tôi”. Tất nhiên, theo phương pháp luận hoài nghi của Descartes (“nguyên lý thứ nhất”), dù hoang đường mộng mị tới đâu thì cái “Tôi” biết suy tư luôn tiền giả định sự tồn tại của chính nó (“…Và khi tôi quan sát thấy rằng sự thật này: tôi đang suy nghĩ, do đó tôi tồn tại, là hoàn toàn chắc chắn, và đầy đủ bằng chứng hiển nhiên tới mức không có cơ sở nào để nghi ngờ… Chẳng phải đắn đo, tôi chấp nhận nó như nguyên lý đầu tiên của thứ triết học mà tôi đang nghiên cứu” - Discourse on the Method of Rightly Conducting One’s Reason and of Seeking Truth in the Sciences, Oxford University Press, Part IV, p.28, - a new translation of Ian Maclean (2006)). Việc xác lập một cái “Tôi” chắc chắn cho nhân vật Thám tử ở “phút 90” có thể là khởi điểm của một cuộc “lội ngược dòng” nữa, hay nói cách khác, một manh mối quan trọng giúp xoay chuyển “vụ án” này theo những chiều diễn dịch khác nhau. Và thẩm quyền của độc giả tiểu thuyết là được tự do trong những liên tưởng như vậy.
Hà Nội, mùa hè 2023 - một mùa hè nóng hoang đường
Ng.h.Đăng, biên tập viên