Từ những cây bút chuyên nghiệp trưởng thành từ chiến sĩ như Phạm Trung Nhân, Ngô Quốc Lập, Châu La Việt… đến những người lần đầu tiên cầm bút; từ thiếu tướng quân đội đến chiến sĩ lái xe; từ người lính công binh đến bộ binh, hay cả những chàng trai cao xạ; từ những nhà văn, nhà thơ đã thành danh trên văn đàn như Nguyễn Minh Châu, Vương Trọng, Mai Nam Thắng… Tất cả họ đã cùng cống hiến, đóng góp sức mình viết nên cuốn sách đăc biệt Binh trạm 13 – Đường 7 – Cánh đồng Chum. Những trang viết của họ đã tạo nên một sức lay động mạnh mẽ đến bạn đọc hôm nay vì đã phản ánh chân thực cuộc chiến tranh hào hùng trong quá khứ bằng trái tim, tâm hồn của người trong cuộc... Ngay từ câu chuyện mở đầu cuốn sách của tác giả - Thiếu tướng Nguyễn Bình Sơn – một tên tuổi nổi bật của Tình nguyện quân Việt Nam năm xưa – người đọc đã thực sự ngỡ ngàng bởi cách viết đầy phóng khoáng, giản dị mà vô cùng mới mẻ của một vị tướng tưởng chỉ quen với quân lệnh và những chiến dịch trong chiến đấu. Những khó khăn mà các đơn vị công binh, pháo binh và cả những đơn vị vận tải gặp phải trong những năm 1963, 1965 hay 1969, trong những ngày mưa rừng, hay những năm thiếu thốn lương thực được kể lại bằng giọng kể như bình thản mà ngấm đầy sự xúc động, nghẹn ngào. Thượng tá Phạm Trung Nhân lại đem đến một câu chuyện thú vị Tờ báo của những người lính Binh trạm 13 giữa mặt trận. Công đoạn làm ra một tờ báo – món ăn tinh thần quan trọng, không thể thiếu của những người lính ở Binh trạm 13 đọc giữa những chặng nghỉ của hai trận pháo được tái hiện đầy duyên dáng và hóm hỉnh.
Bên cạnh những cây bút không chuyên đóng góp bằng những bài bút ký sinh động, giản dị, thấm đẫm hơi thở của thời đại là những bài thơ của các tác giả khoác áo lính như Lê Hoài Nguyên, Phạm Trung Nhân cũng khiến bạn đọc bồi hồi, xúc động về một vùng đất có cái nắng gió Lào hun lửa, những cung đường chót vót tới lưng trời, những hố bom lấp đầy cát bụi… mà nỗi nhớ luôn khắc khoải, luôn cháy âm ỉ trong trái tim những người lính vận tải một thời.
Đọc Binh trạm 13 – Đường 7 – Cánh đồng Chum, người đọc như được sống lại những tháng năm tuổi trẻ sôi nổi cùng những người lính binh chủng hợp thành trên chiến trường Lào. Mỗi bài bút ký như một thước phim quay chậm tái hiện lại những tháng ngày chiến đấu gian khổ, vất vả, thiếu thốn vũ khí, đạn dược, đến lương thực của những người lính trên Cánh đồng Chum (trong các tác phẩm Cánh đồng Chum năm 1971; Mùa mưa Xiêng Khoảng, Lưới lửa phòng không trên tuyến đường 7, Lửa sáng phía chân trời). Những câu chuyện được kể lại bởi chính những người lính trong cuộc (chiến sĩ lái xe Nghiêm Xuân Thép, chiến sĩ công binh Nguyễn Tiến Ngôn, chiến sĩ cao xạ Phan Tuấn Doanh, Lê Khánh Hoài…). Người đọc có cảm giác như đang nghe thấy tiếng bom rơi đạn nổ bên tai, ngửi thấy mùi khói thuốc nồng nặc, mắt cay xè vì bụi đường và cả những cơn chấn động rung người bởi tiếng pháo… Chiến tranh dữ dội và ác liệt là thế, nhưng tâm thức của những người lính trong trận chiến luôn có một sự bình tĩnh, mạnh mẽ đến không thể lay chuyển. Đan xen giữa những tháng ngày khói lửa ngút trời, người lính của Binh trạm 13, của Đường 7 và Cánh đồng Chum luôn có những thời khắc thư giãn: để làm báo và đọc báo (Tờ báo của những người lính Binh trạm 13 giữa mặt trận); làm thơ (Có một con đường của thơ ca); đón chào những đoàn văn công đến với chiến trường (Nhớ những nghệ sĩ Hà Nội ngày ấy; Một cái tết giữa rừng cây săng lẻ trên chiến trường Lào của các nghệ sĩ Hà Nội); hay đơn giản hút một điếu thuốc lào cho vơi bớt nỗi nhớ quê hương (Rít thuốc lào giữa cánh đồng Chum)… Niềm hạnh phúc đơn sơ, giản dị của những người lính thuở ấy khiến những người đọc của ngày hôm nay cảm thấy cay cay nơi khóe mắt. Những chàng trai của lứa tuổi đôi mươi ngày ấy đã xông pha trận mạc, vào nơi tuyến lửa ác liệt nhất lại có những niềm vui thật giản dị, đơn sơ và trong trẻo đến thế.
Một phần vô cùng hấp dẫn trong Binh trạm 13, đường 7, cánh đồng Chum chính là những câu chuyện tình yêu vừa dí dỏm, hóm hỉnh mà không kém phần ngọt ngào lẫn cay đắng của những người lính trẻ trong cuộc chiến. Bài ký May nhờ đọc thơ tán gái của nhà thơ Mai Nam Thắng đã kể lại một kỷ niệm khó quên và hài hước của đại tá Nguyễn Phú Nho khi phát hiện ra tài làm thơ để tán gái của nhà thơ – cựu chiến binh Lê Khánh Hoài. Một tình yêu người lính lại kể về một chuyện tình nảy nở giữa một Trung đội trưởng nữ nổi tiếng hách xì dầu với một chàng lính trẻ có tài thổi sáo trúc, họ đã phải trải qua bao gập ghềnh, trắc trở và thử thách trong cuộc chiến rồi cuối cùng mới thuộc về nhau. Nhưng ấn tượng và ám ảnh nhất với người đọc có lẽ không phải một chuyện tình mà là một kỷ niệm bất ngờ, kì lạ như tên truyện Huyền ảo trăng của nhà văn Châu La Việt. Câu chuyện kể về những tân binh trong quãng thời gian huấn luyện ở miền Bắc, trước khi vào chiến trường. Và rồi, có một chàng lính trẻ trong một đêm trăng hoang đường đã lần đầu tiên được nếm trái cấm... Mô típ truyện đề cập đến một vấn đề đã từng cấm kị trong văn chương một thời, nhưng không làm người đọc khó tiếp nhận, bởi đã nói lên tiếng lòng của những người lính trẻ, nói thay họ cả những khát khao thầm kín nhất, những mộng ước tươi đẹp của những chàng trai tuổi mười tám, đôi mươi.
Mỗi câu chuyện được kể lại trong cuốn sách giống như một mảnh ghép giàu màu sắc góp phần hoàn thiện bức trang về những người lính của binh trạm 13 chiến đấu trên đường 7 và cánh đồng Chum. Người đọc không chỉ khám phá sâu hơn, rộng hơn đời sống chiến đấu của những người lính mà còn tìm hiểu và phát hiện được đời sống tinh thần phong phú, trẻ trung và lạc quan của họ. Xúc động, ngạc nhiên, bất ngờ, sảng khoái… có lẽ chưa đủ để nói hết những cảm xúc khi đi trọn hết 40 câu chuyện trong cuốn sách. Những người lính Trường Sơn năm xưa, thêm một lần sống lại trong trang sách một cách mới mẻ và hấp dẫn như thế.
Theo Văn nghệ số 25/2021