Ông trùm Sơn Đảo về hẻm 158 vùng Ông Tạ từ thập niên 1960, còn gia đình anh Vinh về một con hẻm gần ngã tư Nguyễn Trọng Tuyển - Nguyễn Văn Trỗi sau 1975, cách nhà nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ở mặt tiền Nguyễn Trọng Tuyển vài bước chân, lúc ấy còn là đường đất. Khu vực này thuộc Phú Nhuận, nhưng sát vùng Ông Tạ, đến sau 1975 cả chục năm vẫn thưa thớt, như một nơi bị bỏ quên, hầu như không có chợ cho riêng mình ngoài những chợ nhỏ.
Anh coi tôi như em. Tôi đến nhà anh, ngôi nhà nhỏ, trong một hẻm cụt chiều ngang chỉ hơn một mét từ hơn 30 năm trước. Tới giờ cơ bản nó vẫn nhỏ như xưa. Nhưng ngôi nhà ấy không cản nổi một đãng tử “nhởn nhơ như một hột xí ngầu - Lúc lắc nhảy và trường kỳ lúc lắc” như một trong nhiều câu thơ của anh mà tôi thuộc làu từ thuở thiếu niên.
Trong hồi ký Giai thoại của thi sĩ, hầu như không nghe anh nhắc đến chợ Lăng, chợ Phú Nhuận mà không ít lần nhắc đến bạn bè, thân hữu vùng Ông Tạ như mối thân tình với một võ sư vùng Ông Tạ. Hơn thế, anh còn từng làm thợ kẹo ở xứ Nam Thái, trung tâm Ông Tạ.
Trong hồi ký của mình, anh kể hồi đầu thập niên 1980, anh sửa xe vỉa hè với ông bạn giang hồ Phan Văn Bồng mà anh đặt cho biệt danh là “Bế Văn Bồng” ngay ngã tư Trần Quốc Thảo - Điện Biên Phủ. Ở đây, anh tái ngộ vô số bạn hiền. Trong đó có Lưu Ngũ, tác giả tập Vũng lầy đoạt giải thưởng Văn học Thành phố cùng với anh, Trần Mạnh Hảo, Lê Văn Vọng Vũ Quần Phương, Lương Minh Cừ, Nguyễn Mạnh Tuấn, Đào Hiếu, Lê Duy Hạnh, Trương Quốc Khánh…
Lưu Ngũ rủ nhà thơ Bùi Chí Vinh về khu Ông Tạ làm kẹo bán kiếm tiền độ nhật. Cụ thể là về hẻm Bình Dân. Cuối hẻm có nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân.
Nhà văn Lưu Ngũ tên thật là Luật, con ông bà cố Toán (theo cách gọi của người Công giáo, cha mẹ của linh mục gọi là cố, vì con ông bà cụ Toán tên Phát, anh của anh Luật, là linh mục). Anh Luật vốn gốc sĩ quan mũ nâu Biệt động quân, cao to, đẹp trai. Anh hiền lành như ông bà cố nhưng có biệt danh Sáu Vạng vì thiên hạ đồn, khi cần, anh “vạng” sáu cái là địch thủ đo ván.
Theo anh Bùi Chí Vinh, một dịp hành quân qua Bến Tre, anh lấy vợ ở đó, rồi bị thương, chân đi cà nhắc sau một trận đánh gần 1975. Ngoài người anh làm linh mục, anh Luật có em trai tên Công, em gái tên Oanh định cư ở nước ngoài. Oanh có biệt danh Oanh “guốc” vì là chủ cửa hàng bán guốc mặt tiền Phạm Văn Hai. Cha mẹ anh Luật có nhà mặt tiền, buôn bán khu Ông Tạ...
Bạn anh Luật là Ba Đen, một đại ca ở Bà Rịa Vũng Tàu, người đã hỗ trợ tiền bạc cho “đám anh em văn nghệ sĩ mạt lộ” - từ của nhà thơ Bùi Chí Vinh - mở lò kẹo sau nhà anh Luật. Thợ làm kẹo lúc ấy sau này là những tên tuổi lẫy lừng: đạo diễn Hồ Ngọc Xum, thi sĩ Trần Mạnh Hảo, nhạc sĩ Nguyễn Hải, nhạc sĩ Lã Văn Cường... Các anh Bùi Chí Vinh, Nguyễn Hải, Lã Văn Cường gói kẹo, đạp xe bỏ mối kẹo, cho cả những cơ sở của Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tiền mang về, anh Luật chỉ nhận tượng trưng còn cho các anh “xài thả cửa”. Anh Vinh khoái chí, nổi hứng làm bài thơ Bán kẹo:
“Ta sinh ra chưa hề hảo ngọt
Quen đắng cay hơn uống nước đường
Chắc tại đời ta như giấy bóng
Nên lâu lâu gói kẹo đỡ buồn
Hãy ngậm vào mồm đi các em
Những viên kẹo trời sinh rất ngọt
Ta là một thằng có râu ngu dốt
Đội không sao vừa vặn mũ cánh chuồn
Đành an phận chọn cho mình nghề nghiệp
Hai bữa mỗi ngày bán kẹo nuôi con
Hãy ngậm vào mồm đi các em
Kẹo ta bán vốn chẳng cần nhãn hiệu
Kẹo còn trinh tiết ta gọi là kẹo kéo
Ngắt một ngón tay chỉ tốn có 5 hào
Khi hút thuốc lào và nói chuyện tào lao
Mời các em mua ngay phong mè xửng
Kẹo dành lai rai là kẹo nhiều đậu phụng
Ta chưa quốc doanh nên giá cả rẻ tiền
Kẹo chuối, kẹo dừa ngọt lắm đó các em
Ngậm cho chặt để lưỡi đừng lắt léo
Bạn bè ta và vợ ta bán kẹo
Chỉ mình ta thích hợp với “kẹo đồng”
Chính vì thế các em nên mua kẹo
Để mỗi ngày gỡ bựa dưới chân răng…”
Anh Luật vốn là thợ của lò kẹo Thăng Long Rồng Vàng,một trong hai lò kẹo nổi tiếng khu Ông Tạ. Lò kia là Quế Hương (lò này giờ vẫn còn). Hai lò cùng khu Nam Thái, gần nhau. Lò Thăng Long Rồng Vàng trong hẻm Bình Dân, gần khu Mả Tàu; chủ là ông bà Kiểu.
Bác Kiểu trai hai đời vợ, vợ trước sinh hai anh Minh, Bảo; vợ sau sinh sáu con: Cò, Oanh, Dung Tùng Thanh, Cương. Bác Kiểu trai hiền lành. Bác gái hơi khó tính, có em ruột tên Trần Hoan, thiếu tá tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 367 LK, một sĩ quan hiền lành, nhân đức, thương binh sĩ dưới quyền, có vợ người miền Tây. Sau 1975 đi cải tạo, rồi về sống ở quê vợ, bị nhiều bệnh tật, mất sau đó không lâu. Nếu lò Quế Hương chỉ làm dịp tết và chỉ một loại kẹo duy nhất là kẹo lạc thì lò bác Kiểu làm quanh năm: kẹo lạc, kẹo bông dâu, kẹo trứng chim, kẹo mè, thèo lèo cứt chuột... và cả bánh nướng, bánh dẻo dịp Trung thu. Mùa nào thức nấy.
Hồi ký nhà thơ Bùi Chí Vinh: “Không xa nhà Lưu Ngũ là nhà Bùi Đại Bằng, một đàn anh bất phùng thời ở khu Ông Tạ. Mỗi lần nhậu nhẹt chúng tôi thường kéo qua nhà anh chơi tít cung mây. Bùi Đại Bằng mới lấy vợ là một hiền thê có chữ nghĩa hằng ngày cùng với anh ra chợ ngồi bán cá. Hai vợ chồng bán đủ các loại cá đồng, cá biển nhưng mỗi khi tôi xuất hiện là họ để dành một đống ruột cá lóc làm mồi nhậu đãi nhà thơ. Dân có máu Thủy Hử cụng ly nhau nhiều khi nước mắt ứa ra vì thời thế. Tôi có làm bài thơ ‘Bán cá an ủi vợ chồng họ như Hàn Tín an ủi bữa cơm Phiếu Mẫu”.
Anh Bùi Chí Vinh có lẽ là một trong những văn nghệ sĩ, nhà thơ có số phận kỳ lạ và số kiếp “trầm luân” sau 1975. Anh là lính Nhảy dù trước 1975, sau 1975 đi bộ đội đặc công đều đánh chỉ huy; từng là Trưởng ban Văn nghệ báo Tuổi Trẻ. Làm dân, anh vừa đọc thơ đời thường cho bạn đọc, nhà lãnh đạo Võ Văn Kiệt nghe; vừa làm diễn viên phim vừa làm đủ nghề: từ làm kẹo, đạp xích lô... đến bán ve chai. Vậy nên thơ anh cực kỳ gai góc, bình dân lẫn giang hồ. Anh làm thơ từ máu thịt và vô số nỗi đau của mình, dễ như người ta uống trà đá. Có lúc anh viết cả truyện nhiều kỳ “Tứ quái… rất ăn khách”.
Sau khi hai bác Kiểu mất, lò kẹo Thăng Long Rồng Vàng nghỉ. Kẹo Quế Hương đến giờ vẫn còn, chủ là người con út tên Toàn và vẫn chỉ làm bán dịp tết. Dân Ông Tạ hơn 60 năm nay không ai không biết những thanh kẹo thơm ngon, để vài tháng vẫn giòn của Quế Hương. Việc chọn lựa kỹ những hạt đậu phộng rang cỡ nào, tỉ lệ mạch nha - đường ra sao... là một bí quyết gia truyền tới giờ vẫn chỉ người trong nhà của lò kẹo này biết, không lọt ra ngoài.
Và có lẽ quan trọng hơn, những anh “thợ kẹo” Ông Tạ ấy, thử ngẫm mà coi, ai cũng hết sức “lì lợm, bướng bỉnh”, đủ tài năng nhưng cuộc đời dày đặc nỗi gian truân. Có lúc thơ văn họ dường như bị “cấm cửa”. Như nhà thơ, nhà văn gai góc, không sợ trời sợ đất Trần Mạnh Hảo “sinh ra với một lý lịch xấu, không ai thừa nhận tôi là con người bình thường. Sống mà bị lưu đày ngay trên quê hương mình”. Đọc thơ, đọc văn anh, nghe cả một trời yêu thương và khí phách, kể cả khi “mạt lộ”.
Từ thuở thiếu nhi, tôi đã được nghe anh đọc thơ, bình thơ ở báo Khăn Quàng Đỏ. Nghe như sóng trào và rất duyên dáng. Khi tôi thực tập sư phạm năm 1983 ở Trường Marie Curie, vợ trước của anh là cô Kim Chi, cô giáo văn hướng dẫn tôi. Có lúc cô gọi tôi đến nhà - một phòng ở chung cư đối diện trường - để chỉnh sửa, góp ý về việc đứng lớp. Anh Hảo ngồi nghe, chỉ cười tủm tỉm, rất vui. Vừa rồi, nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình Trần Mạnh Hảo ra tuyến tập thơ hơn 450 trang sau nhiều năm “biệt tích”. Giới văn nghệ và nhiều bạn đọc cả nước bất ngờ và vui mừng. Những bài thơ về mẹ, về đôi lứa, về cuộc đời và cả với một chú cún... mà tình đều như sóng dồn, như bão nổi. Thơ thật như trái tim một con người, của một tín hữu Công giáo yêu đến tận cùng sự thật. Phong cách khác nhưng tình có khác gì thơ của nhà thơ Bùi Chí Vinh: khinh bạc giữa cõi đời, đọc mà ứa nước mắt…
Bài viết được trích lược từ cuốn Gia định là nhớ, Sài Gòn là thương tập 2 của nhà báo Cù Mai Công, do First News phát hành.