"Theo Luro, hôn nhân được đặt ra, từ thời cổ đại, có sáu nghi lễ khác nhau. Ngày nay chỉ còn lại ba, được mô tả trong Gia Lễ hoặc Kinh Lễ:
1/ Lễ chọn (hay nạp thái): Yêu cầu kết hôn được chuyển tải bằng thư. Buổi sáng ngày gửi thư này phải thông cáo cho tổ tiên. Bởi vậy, người cha, trước bàn thờ đã được thắp nến, quỳ lạy bốn lạy. Vừa rót rượu, ông quỳ xuống, đọc một tờ sở thông báo cho tổ tiên về lời cầu hôn. Sau đó, ông quỳ lạy bốn lạy, đốt tờ sớ; ông bỏ thư trong hộp có thẻ ghi tên, tuổi và ngày sinh con trai ông. Cha của cô gái nhận được tin nhắn thì cũng thông cáo cho tổ tiên của mình, sau đó viết trả lời gửi lại bằng tờ giấy đỏ ghi tên, tuổi và ngày sinh của cô gái.
Cha chàng trai đọc thư trả lời; ông thắp nến, hương trên bàn thờ, mở tủ, nơi đặt những bài vị tổ tiên, tự mình quỳ lạy bốn lạy, đọc một tờ sở thông cáo cho tổ tiên và lại quỳ lạy.
2/ Lễ nạp tệ (hay nạp trưng – tức tặng vật phẩm thường dùng). Khi người ta xem quẻ, thấy thuận lợi, họ đem sính lễ đến, là vải vóc hoặc các đồ vật khác, nhằm thể hiện ý định chắc chắn thực hiện cuộc hôn nhân. Một lá thư nữa được trao đổi để xác nhận ý định của cả hai bên; và người chủ mỗi gia đình thông cáo, theo cách được nói ở trên, cho tổ tiên của ông về tất cả các bước thực hiện.
3/ Lễ thân nghinh (đám cưới). Vào ngày cưới, người chủ gia đình bên nhà trai, với đông đủ họ hàng, đến trước bàn thờ tổ tiên. Ông mở hộp chứa những bài vị tổ tiên và thông cáo thẩm với những bậc bề trên này; sau đó ông thắp nến, hương, rót rượu vào chén và tự quỳ lạy hai lạy; sau nữa, ông rót rượu trên bàn thờ, quỳ lạy và đốt sớ báo tin.
Người con trai sau đó rưới một vài giọt rượu trong chén xuống đất, uống phần còn lại, quỳ lạy, đứng dậy và cúi chào cha mình, ông ban lệnh cho anh ta đi rước dâu.
Người con trai đi, theo đoàn người, đến nhà vị hôn thê. Ở nhà cô gái lại thực hiện nghi lễ giống như trên vừa mô tả. Sau nhiều lời thăm hỏi, chàng trai đưa vị hôn thê về nhà; cả hai đứng trước bàn thờ tổ tiên sau khi thực hiện nghi lễ quỳ lạy. Sau đó, chủ lễ đọc cho tổ tiên một tờ sớ: “Tôi (ở đây tên dự kiến) theo lệnh của cha tôi đã mang về nhà tôi... (tên của người vợ) để làm vợ tôi và tiếp tục thờ cúng tổ tiên. Tôi cầu xin ông bà tổ tiên ban phước cho cuộc hôn nhân của chúng tôi – (anh ta quỳ gối) - tôi cầu xin sự bảo vệ các người hóa vàng cho chúng tôi. Tờ sớ được đốt, vợ chồng đứng lên, buổi lễ hoàn tất.”
Trong tình trạng phong tục hiện nay, ba nghi lễ quy định bởi Gia Lễ được thực hiện với ít nhiều sai lệch, tuy nhiên việc cầu khấn tổ tiên vẫn là bắt buộc. Điều này cho thấy hôn nhân của người An Nam không chỉ là sự kết hợp nam nữ đơn thuần mà còn là mối liên kết thiêng liêng vào cùng một sự thờ phượng."
- Trích “Tâm lý dân tộc An Nam”