Gen không quyết định tất cả: 4 trụ cột tâm lý tạo nên sự bền bỉ
Gen không quyết định tất cả: 4 trụ cột tâm lý tạo nên sự bền bỉ
“Bền bỉ có sẵn trong gen của chúng ta hay không?”
Vững tâm bền chí ắt thành công
(21 lượt)
Nhiều người đã hỏi câu này mỗi khi nghe tôi nói về phẩm chất bền bỉ. Tôi cũng hay được hỏi về yếu tố tự nhiên hay cách thức nuôi dưỡng phẩm chất này. Chúng ta luôn có trực giác về những gì liên quan đến mình – ví dụ như chiều cao được quyết định chủ yếu bởi yếu tố di truyền, trong khi những vấn đề khác – chẳng hạn như khả năng nói tiếng Anh hoặc tiếng Pháp – lại là kết quả của giáo dục và trải nghiệm. “Bạn không thể luyện tập chiều cao” là câu nói cửa miệng trong công tác huấn luyện bóng chày, nhiều người muốn biết liệu tính bền bỉ giống chiều cao hơn hay giống việc học ngoại ngữ hơn.

Đối với câu hỏi “Bền bỉ có sẵn trong gen của chúng ta hay không?”, tôi có câu trả lời ngắn và câu trả lời dài. Câu trả lời ngắn là: Một phần. Câu trả lời dài là: Chuyện ấy phức tạp hơn nhiều. Theo quan điểm của tôi, chúng ta cần quan tâm nhiều hơn đến câu trả lời dài. Khoa học đã đạt được những bước tiến lớn trong việc nghiên cứu cách thức yếu tố di truyền, trải nghiệm và sự tác động qua lại của chúng tạo nên con người chúng ta. Theo những gì tôi biết thì thật không may, sự phức tạp vốn có của các dữ liệu khoa học thường gây hiểu lầm. 

Để bắt đầu, tôi có thể khẳng định chắc chắn mỗi nét tính cách của con người đều chịu ảnh hưởng bởi cả hai yếu tố di truyền và trải nghiệm.

Hãy xem xét chiều cao. Chiều cao có tính chất di truyền: Sự khác biệt về gen là lý do chính giải thích tại sao có người rất cao, có người lại rất thấp và chúng ta sở hữu chiều cao rất khác nhau.

Nhưng sự thật là chiều cao trung bình của nam giới và nữ giới đã tăng lên đáng kể chỉ qua vài thế hệ. Ví dụ, theo số liệu lưu trữ của quân đội Mỹ, 150 năm trước, nam giới Anh cao trung bình 1,65m, nhưng ngày nay chiều cao trung bình của họ là 1,77m. Sự cải thiện chiều cao diễn ra nhanh hơn ở các nước khác; tại Hà Lan, ngày nay, chiều cao trung bình của nam giới là 1,85m – tăng khoảng 0,15m so với 150 năm trước. Tôi lại nhớ đến mỗi khi làm việc với các đồng nghiệp người Hà Lan, dù họ đã cúi gập người xuống nhưng tôi vẫn cảm thấy mình như đang đứng giữa rừng cây tùng bách vậy.

Không phải hệ thống gen đã thay đổi nhanh chóng chỉ qua vài thế hệ. Yếu tố thúc đẩy chiều cao tăng mạnh mẽ nhất chính là dinh dưỡng, không khí và nguồn nước sạch, các loại thuốc mới. (Thật ngẫu nhiên, vấn đề tăng cân nặng qua các thế hệ còn diễn ra nhanh hơn và có thể cũng là kết quả của việc ăn nhiều, di chuyển ít chứ không phải là do ADN.) Ngay cả trong cùng thế hệ, bạn cũng có thể nhận thấy ảnh hưởng của môi trường đến chiều cao. Trẻ em được sử dụng nhiều thực phẩm an toàn sẽ cao hơn, còn thực phẩm kém dinh dưỡng sẽ làm giảm tốc độ phát triển.

Tương tự, các nét tính cách như trung thực, hào phóng và tất nhiên, cả bền bỉ, đều chịu ảnh hưởng của gen và trải nghiệm. Điều này cũng tương tự với chỉ số thông minh, tính hướng ngoại, ưa thích các hoạt động ngoài trời, sở thích ăn ngọt, khả năng nghiện thuốc lá nặng, nguy cơ bị ung thư da và bất kỳ đặc điểm nào bạn có thể nghĩ tới. Yếu tố tự nhiên cũng có tác động như yếu tố giáo dục vậy.

Tài năng ở nhiều lĩnh vực khác nhau cũng chịu ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền. Một số người sinh ra đã có sẵn gen vượt trội trong việc học nhạc, chơi bóng rổ hoặc giải căn bậc hai. Ngược lại, theo trực giác, tài năng không hoàn toàn là do di truyền: Mức độ chúng ta phát triển kỹ năng nào đó cũng chính là chức năng của kinh nghiệm.

Ví dụ, nhà xã hội học Dan Chambliss từng tham dự nhiều cuộc thi bơi lội hồi còn trung học nhưng rồi ông dừng lại vì thấy rõ mình không thể trở thành vận động viên bơi lội quốc gia.

Ông giải thích: “Tôi khá nhỏ bé và mắt cá chân của tôi cũng không linh hoạt. Hơn nữa, tôi còn không thể vẫy ngón chân mà chỉ có thể gập các ngón lại. Đó là hạn chế của cơ thể. Điều đó có nghĩa là ở trình độ cao, tôi chỉ có thể bơi ếch.” Sau khi trao đổi với ông, tôi đã tìm hiểu một chút về phản xạ gập chân. Các bài tập kéo giãn cơ có thể cải thiện vận động nhưng độ dài của một số xương mới tạo nên sự khác biệt về mức độ linh hoạt của bàn chân và mắt cá.

Tuy nhiên, rào cản lớn nhất đối với việc cải thiện khả năng bơi lội lại không phải do giải phẫu mà chính là cách ông được huấn luyện: “Giờ đây nhìn lại, tôi thấy các huấn luyện viên ở những thời điểm quan trọng của tôi lại quá tệ. Một trong những huấn luyện viên ở trường trung học – dạy tôi suốt 4 năm – đúng là chẳng dạy được tôi điều gì. Không gì cả. Ông ấy dạy tôi cách lộn người đổi hướng trong bơi ếch nhưng cũng dạy sai.”

Điều gì đã xảy ra khi cuối cùng Dan cũng gặp được thầy giỏi?

“Nhiều năm sau khi trở lại bể bơi, tôi có thân hình chuẩn và có thể bơi phối hợp cá nhân 182m nhanh như thời còn đi học.”

Câu chuyện tương tự lại xảy ra. Không chỉ yếu tố tự nhiên, không chỉ yếu tố dưỡng dục. Phải là cả hai.

Làm sao các nhà khoa học có thể khẳng định cả yếu tố tự nhiên và nuôi dưỡng có ảnh hưởng quyết định đối với tài năng và tính bền bỉ? Trong những thập kỷ qua, các nhà khoa học đã nghiên cứu các cặp sinh đôi cùng trứng và sinh đôi khác trứng được nuôi trong cùng gia đình hoặc khác gia đình. Anh em sinh đôi cùng trứng có ADN giống nhau, anh em sinh đôi khác trứng trung bình chỉ có khoảng 1/2 ADN giống nhau. Thực tế này và toàn bộ các số liệu thống kê phức tạp cho phép các nhà nghiên cứu đi đến kết luận về khả năng kế thừa một đặc điểm hay nét tính cách dựa vào sự giống nhau giữa các cặp sinh đôi.

Gần đây, các nhà nghiên cứu tại London cho tôi biết họ đã sử dụng Thang đo tính bền bỉ để đánh giá hơn 2.000 cặp sinh đôi ở độ tuổi thiếu niên sống tại Vương quốc Anh. Nghiên cứu này ước tỉnh khả năng di truyền của phẩm chất kiên trì là 37% và đam mê là 20%. Con số này cũng phù hợp với số liệu ước tính về khả năng di truyền của một số nét tính cách khác; nói đơn giản nhất, điều này nghĩa là một số thay đổi về phẩm chất bền bỉ ở nhóm mẫu này có thể do di truyền, còn lại là do trải nghiệm.

Tôi cũng cần bổ sung ngay rằng không thể giải thích được khả năng di truyền của tính bền bỉ ở con người bằng một loại gen. Ngược lại, nghiên cứu đã chỉ ra phần lớn tỉnh cách của con người là do nhiều gen tạo ra, nghĩa là các nét tính cách ấy chịu ảnh hưởng của nhiều loại gen khác nhau. Thực tế là rất nhiều. Ví dụ, chiều cao chịu ảnh hưởng của ít nhất 697 loại gen. Một số gen tác động đến chiều cao còn ảnh hưởng đồng thời đến các đặc điểm khác. Nói chung, bộ di truyền của con người có khoảng 25.000 loại gen, chúng tương tác với nhau và với những ảnh hưởng của môi trường theo nhiều cách thức phức tạp mà con người chưa thể biết hết.

Tóm lại, chúng ta đã biết gì? Thứ nhất: Tình bến bỉ, tài năng và tất cả những nét tính cách khác liên quan đến thành công trong cuộc sống chịu sự ảnh hưởng của di truyền và trải nghiệm. Thứ hai: Không chỉ có một loại gen duy nhất tạo nên tính cách bền bỉ hoặc các đặc điểm tâm lý khác ở con người.

[…]

Qua việc phỏng vấn những người đam mê và kiên trì, tôi đã biết họ trở nên bền bỉ hơn bằng cách nào. Tôi cũng giới thiệu vắn tắt những cuộc phỏng vấn này trong toàn bộ cuốn sách để bạn hiểu rõ hơn suy nghĩ và cảm nhận của một người bền bỉ đột phá cũng như xem xét liệu có niềm tin, thái độ hay thói quen nào đáng để bạn học hỏi không.

Các câu chuyện về người bền bỉ chỉ là dạng tư liệu, nó bổ sung cho các nghiên cứu hệ thống, định lượng mà tôi đã tiến hành ở những nơi như Học viện West Point và Cuộc thi Đánh vần Quốc gia. Bằng cách này hay cách khác, việc nghiên cứu cho tôi biết những trụ cột tâm lý chung của người bền bỉ đột phá. Có 4 trụ cột. Họ cũng vượt qua những ảnh hưởng tiêu cực mà tôi đã nêu ở trên và có khuynh hướng phát triển theo trật tự nào đó trong nhiều năm.

Thứ nhất, đó là sự hứng thú. Đam mê bắt đầu bằng sự yêu thích đối với việc bạn làm. Tất cả những người bền bỉ mà tôi nghiên cứu đều có thể chỉ ra một số khía cạnh của công việc họ không thích như những người khác, đa số họ cũng từng phải làm 1-2 việc mà họ không thích. Tuy nhiên, họ bị thuyết phục bởi sự nỗ lực nói chung và thấy điều đó ý nghĩa. Nhờ đam mê và tính tò mò của con trẻ, họ thốt lên: “Tôi thích những gì tôi làm.”

Tiếp theo, đó là khả năng rèn luyện. Một cách thể hiện đức tính kiên trì là nguyên tắc cố gắng làm tốt hơn mỗi ngày, hôm nay làm tốt hơn hôm qua. Do đó, sau khi bạn phát hiện và quan tâm hơn tới việc gì đó, bạn phải toàn tâm toàn ý luyện tập đến mức thành thục. Bạn phải loại bỏ mọi điểm yếu của mình, làm đi làm lại nhiều lần, ví dụ nhiều giờ trong ngày, hết tuần này đến tuần khác, tháng này sang tháng khác, năm này qua năm khác. Bền bỉ đánh bại tính tự mãn. “Dù mất bao nhiêu thời gian, tôi cũng vẫn muốn nâng cao trình độ” là điệp khúc của tất cả những người bền bỉ cho dù sự hứng thú cụ thể của họ là gì, cho dù họ xuất sắc đến mức nào.

Thứ ba là mục đích. Cho dù đam mê có lớn đến đâu thì niềm tin của bạn vẫn là yếu tố quyết định. Đối với hầu hết mọi người, hứng thủ mà không có mục đích cũng không thể duy trì lâu dài. Do vậy, bạn cần xác định công việc là sự hứng thú của cá nhân và đặt nó trong mối quan hệ cân bằng với những vấn đề khác. Đối với một số ít người, mục đích được phát hiện sớm nhưng đối với nhiều người, động cơ để phục vụ người khác chỉ phát triển sau khi họ hình thành sự hứng thú và nhiều năm thực hành có nguyên tắc. Dù sao, người bền bỉ đột phá luôn nói: “Công việc của tôi quan trọng – đối với tôi và những người khác nữa."

Cuối cùng là hy vọng. Hy vọng là một cách để trở nên kiên trì. Trong cuốn sách này, tôi sẽ phân tích trụ cột thứ tư sau các nội dung về mối quan tâm, rèn luyện và mục đích – nhưng nó lại là thứ quyết định tất cả các giai đoạn. Từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc, điều quan trọng là học cách tiến lên ngay cả khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, ngay cả khi chúng ta còn nghi ngờ. Tại nhiều thời điểm, ở nhiều mức độ, chúng ta có thể gục ngã. Nếu chúng ta từ bỏ, phẩm chất bền bỉ sẽ tan biến. Nếu chúng ta đứng dậy, phẩm chất ấy sẽ được nuôi dưỡng, phát triển. 

- Trích sách “Grit - Vững tâm bền chí ắt thành công”