1/ Ada Lovelace khá “nghiện” cờ bạc
Nữ bá tước Ada Lovelace là nhà văn và nhà toán học người Anh đầu thế kỷ 19. Là con gái của Lord Byron, mẹ bà đã thúc đẩy bà học khoa học và toán học nhằm giúp bà không có kết cục giống người cha nổi tiếng và liều lĩnh của mình. Bà được phong làm Nữ bá tước Lovelace vào năm 1838 sau khi chồng bà, Lord King, trở thành Bá tước Lovelace.
Khi làm việc với Charles Babbage, bà đã viết ra thuật toán đầu tiên dự định sử dụng trên Analytical Engine - máy tính cơ khí do ông đề xuất. Nhưng, có lẽ quan trọng hơn, bà là người đầu tiên hiểu rằng các tính toán được thực hiện trên máy có thể vượt xa tính toán thuần túy và thay đổi hầu hết mọi thứ. Công việc này và những hiểu biết sâu sắc của bà khiến nhiều người coi bà là lập trình viên máy tính đầu tiên.
Bất chấp những nỗ lực của mẹ, Ada vẫn giống cha - người đàn ông nổi tiếng về những sự “nghiện ngập” - về nhiều mặt. Trong số đó, bà thừa hưởng niềm đam mê cờ bạc từ cha. Trong nửa sau của những năm 1840, bà đã thua hơn 3.000 bảng Anh, xấp xỉ 280.000 bảng Anh theo định giá ngày nay, khi đặt cược vào trò đua ngựa. Năm 1851, bà đã cố gắng sử dụng tài năng toán học của mình để tạo ra một thuật toán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các vụ cá cược lớn thành công. Thật không may, nó không thực sự hiệu quả và bà tiếp tục mất một số tiền lớn.
2/ Albert Einstein là một nhạc sĩ tài năng
Albert Einstein là nhà vật lý người Mỹ gốc Đức nổi tiếng với thuyết tương đối và những đóng góp cho cơ học lượng tử. Năm 1905, ông xuất bản bốn bài báo đặc biệt giải thích chuyển động Brown, hiệu ứng quang điện, thuyết tương đối đặc biệt và sự tương đương khối lượng-năng lượng.
Einstein cũng tập chơi violin từ khi còn nhỏ. Mẹ ông là một nghệ sĩ piano tài năng, đã tập cho Einstein chơi violin khi lên 5 với hy vọng ông gắn kết nhiều hơn với văn hóa Đức. Mặc dù ban đầu ông coi đó là một điều lặt vặt, nhưng ông đã yêu thích nhạc cụ này sau khi phát hiện ra Mozart khi ông 13 tuổi. Ngay khi còn là một thiếu niên, tài năng của ông đã được công nhận.
Einstein chưa bao giờ nghiêm túc xem xét việc trở thành một nhạc sĩ chuyên nghiệp. Tuy nhiên, ông nghĩ rằng nếu không theo đuổi khoa học thì có thể ông sẽ là một nhạc sĩ, đôi khi ông đã chơi đàn với các chuyên gia, trong đó có cả Kurt Appelbaum. Phần lớn những kiến thức về âm nhạc là do Einstein tự học, mặc dù vậy, nhiều người chơi cùng ông đều chứng thực rằng ông là một nhạc sĩ giỏi.
Mặc dù hiếm khi biểu diễn trước công chúng nhưng ông chưa bao giờ đi du lịch mà không mang theo cây đàn violin của mình. Cuối đời, ông ngồi cùng với Bộ tứ Zoellner và chơi với các thành viên Bộ tứ Julliard khi họ đến thăm. Cả hai nhóm đều rất ấn tượng trước khả năng của ông. Như là một nghi thức, các tối thứ Tư tại nhà Einstein ở Princeton được dành riêng cho âm nhạc thính phòng.
3/ Isaac Newton tìm kiếm Hòn đá Phù thủy
Isaac Newton là nhà vật lý và toán học người Anh nổi tiếng vì đã xây dựng các định luật chuyển động và định luật hấp dẫn, phát minh ra kính thiên văn phản xạ, phát hiện ra rằng lăng kính tách ánh sáng trắng thành quang phổ và phát minh ra các phép tính. Khó có thể phóng đại ảnh hưởng của ông đối với khoa học, ngay cả khi các lý thuyết hiện đại vượt xa những ý tưởng mà ông tiên phong.
Trong số mười triệu chữ viết mà ông viết ra, có một triệu chữ liên quan đến thuật giả kim. Tác phẩm này chưa được xuất bản và một lượng đáng kể trong số đó có thể bị coi là dị giáo hoặc bất hợp pháp vào thời điểm đó. Có một câu chuyện nổi tiếng chưa được chứng thực kể rằng con chó của Newton, Diamond, đã gây ra một vụ cháy nhỏ trong phòng thí nghiệm, đốt cháy các giấy tờ về thuật giả kim và khiến cho các tài liệu này bị thất lạc.
Trong khi có một số cuộc thảo luận về chính xác những gì ông đang làm, một số nhà sử học khoa học cho rằng thuật giả kim của Newton gần với tiền thân của hóa học hiện đại hơn là phép thuật. Nhiều bài viết của ông cho thấy ông đang tìm kiếm Hòn đá Phù thủy nổi tiếng, thứ có thể biến các kim loại khác thành vàng. Ông cũng có thể quan tâm đến Thuốc trường sinh.
Nhiều giấy tờ về giả kim thuật của ông đã được bán đấu giá. Phần lớn trong số này cuối cùng thuộc về nhà kinh tế học John Maynard Keynes, người đã sưu tầm các tác phẩm của Newton.
4/ John Maynard Keynes sưu tầm tranh và quảng bá nghệ thuật
Barron Keynes là một nhà kinh tế học người Anh được nhiều người coi là nhà kinh tế học có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Những ý tưởng của ông đã khơi dậy cuộc Cách mạng Keynes trong tư tưởng kinh tế và được ghi nhận là đã chỉ ra con đường thoát khỏi cuộc Đại suy thoái và cung cấp các cấu trúc để tạo ra sự bùng nổ kinh tế sau chiến tranh. Ngày nay, những ý tưởng của ông đã có chút thay đổi vẫn còn phổ biến trong kinh tế học.
Keynes khá giàu – ông đã kiếm được nhiều tiền trên thị trường chứng khoán hai lần – nhưng ông cho rằng làm giàu chỉ vì sự giàu có là một dấu hiệu của bệnh tâm thần. Do đó, ông đã tìm cách sử dụng tài sản của mình một cách hiệu quả hơn. Ông đã xây dựng một bộ sưu tập nghệ thuật khá lớn, bao gồm 135 tác phẩm mà ông sẽ tặng cho Cambridge. Trong đó có các tác phẩm của Picasso, Seurat và Cezanne.
Ngoài việc sưu tầm, ông còn hỗ trợ nhiều nhà hát, nhà hát opera và vũ đoàn. Ông cũng là thành viên của Bloomsbury Group, một tập hợp gồm các nghệ sĩ và trí thức người Anh, những người nhận thức về tầm quan trọng của nghệ thuật và tham gia vào nhiều thử nghiệm thẩm mỹ táo bạo. Có thể do mạng lưới mối quan hệ với các nghệ sĩ nên ông đã có thể xây dựng được bộ sưu tập chất lượng như vậy.
5/ Alan Turing có thể theo kịp vận động viên marathon ở Olympia
Alan Turing là một nhà toán học, nhà khoa học máy tính, nhà sinh học lý thuyết, nhà triết học và nhà giải mã người Anh. Ông nổi tiếng với việc giải mã Enigma của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai và về triết lý trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là “Thử nghiệm Turing”. Ngoài công việc với máy tính, ông còn đặt nền móng cho lý thuyết phản ứng khuếch tán của quá trình hình thành hình thái trong sinh học.
Trong thời gian rảnh rỗi, Turing thích chạy bộ. Không giống như nhiều vận động viên giỏi, Turing tham gia môn thể thao này khi đã ở độ tuổi 30. Tuy nhiên, để bù đắp khoảng thời gian đã mất, ông đã nỗ lực hết mình.
Đôi khi ông chạy 40 dặm giữa Bletchley Park và London để tham gia cuộc họp. Tốc độ của ông ngang với những vận động viên chạy giỏi nhất thế giới. Trong Thế vận hội năm 1948 tại Anh, ông tham gia với tư cách là vận động viên chạy marathon với thời gian 2 giờ 46 phút (chậm hơn 11 phút so với thời gian giành huy chương bạc của Tom Richards). Turing nói với bạn bè rằng chạy là một hình thức giảm căng thẳng, đồng thời giải thích: “Tôi có một công việc căng thẳng đến mức cách duy nhất tôi có thể thoát khỏi tâm trí là chạy, đó là cách duy nhất tôi có thể được giải thoát.”
- Trạm Đọc
- Theo Big Think