Thử xem xét lĩnh vực tội phạm: Cuối năm 1989 ở Mỹ, số lượng tội phạm đột nhiên tăng vọt. Những tội phạm bạo hành đã tăng 80% so với 15 năm trước đó, và các chuyên gia dự đoán rằng tình hình sẽ ngày càng trở nên tồi tệ hơn, số lượng sẽ còn tăng nữa. Và vì thế, điều xảy ra vào những năm đầu thập niên 90 đã làm tất cả bất cờ: số con số ấy đột nhiên giảm.
Lại là những nhà chuyên gia ấy cuống cuồng lao vào giải thích sự sụt giảm. Những nguyên nhân dự đoán gồm sự cải thiện của nền kinh tế, chính sách kiểm soát súng gắt gao hơn, các chính sách cải tổ, sự gia tăng trong lực lượng cảnh sát và tăng nhiều hơn mức độ phụ thuộc vào nhà tù.
Mặc cho tính chung chung và có vẻ đáng tin cậy của những lời giải thích này, những phân tích sau này đã chỉ ra rằng hầu hết những yếu tố trên chỉ tác động rất nhỏ lên tỉ lệ phạm tội. Trong thực tế, nhân tố có tác động lớn nhất lại không hề được đề cập đến, đó là phá thai.
Hai trong số những chỉ báo tốt nhất về các hành vi phạm tội trong tương lai của trẻ em là khi lớn lên trong một gia đình đơn thân và khi sống trong điều kiện cơ cực. Những điều này dường như trùng khớp với những lí do phổ biến nhất mà mọi người lựa chọn việc nạo phá thai.
Vậy nên dưới sự điều hành vĩ đại của Roe v. Wade cho phép hợp pháp hóa nạo phá thai trên toàn nước Mỹ vào năm 1973, phụ nữ trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy (như trong 2 trường hợp trên) đột nhiên lại có thể nạo phá thai.
Điều này đã gây ra sự giảm thiểu những đám đông tụ tập, mà có thể biến tướng thành những nhóm tội phạm, vì họ đều sẽ bước sang tuổi 16 vào năm 1989 hoặc những năm sau đó. Kết quả là, chính nạo phá thai đã góp phần vào việc giảm tội phạm từ đó về sau.
Bài học rút ra ở đây là hãy thận trọng với những lý do quá hiển nhiên và ngay trước măt – vì ngay cả chuyên gia cũng có thể bị những lý do này đánh lừa.