[Trích sách “Con cái chúng ta đều tốt”] Hệ thống gia đình nội tại là gì và có ảnh hưởng thế nào tới những năm đầu đời của chúng ta?
[Trích sách “Con cái chúng ta đều tốt”] Hệ thống gia đình nội tại là gì và có ảnh hưởng thế nào tới những năm đầu đời của chúng ta?
Vì sao chúng ta phải duy trì những giới hạn, chịu đựng những cơn ăn vạ, trao đổi về cảm xúc của trẻ và nhìn vào bên dưới hành vi của trẻ để hiểu hơn về những khó khăn nội tại của chúng? 
Con cái chúng ta đều tốt
(0 lượt)
Hệ thống gia đình nội tại (Internal family systems - IFS) là một mô hình trị liệu xem xét những phần khác nhau trong một con người, thay vì nhìn nhận con người với một tính cách duy nhất. Giả định cơ bản của IFS là tâm trí của một người về bản chất bao gồm những phản hay những tiểu nhân cách khác nhau. Ví dụ, bạn có thể là người quảng giao với những người thân quen của bạn nhưng lại khá dè dặt trong một môi trường mới. Bạn có thể đứng lên bảo vệ bản thân khi cần thiết, nhưng cũng có khi bạn lùi lại phía sau để ai đó làm người chủ xướng. Bạn có thể tự tin trong công việc nhưng thường khép kín trong môi trường xã hội. Con người bạn có phần dũng cảm, phần lo âu, phần tự tin, phần khiêm nhường. Bạn có nhiều bộ mặt khác nhau chứ không chỉ duy nhất một. Và không có bộ mặt nào xấu hơn, tệ hơn hay tốt đẹp hơn các bộ mặt còn lại. Bạn là tổng hòa của tất cả các mặt, và càng tự nhiên, thoải mái để những phản bên trong này thể hiện ra, bạn sẽ càng cảm thấy tự nhiên, thoải mái với chính mình trong những tình huống khác nhau. Sự tự tin, kiên định và khả năng biết chính mình của chúng ta đều phụ thuộc vào việc chúng ta có ý thức được điều này hay không. Khi chúng ta cảm thấy mất kiểm soát và phản ứng bốc đồng, nguyên do thường là vì một phần nào đó của chúng ta đã giành quyền kiểm soát; chúng ta đã đánh mất căn tính của mình và trở thành những cảm xúc bốc đồng đó.

Cách nhìn con người theo những phần khác nhau này cho phép chúng ta biểu đạt những cảm xúc đối lập hoặc ngổn ngang của bản thân, chẳng hạn như cảm thấy tỉnh táo trong khi đang bị ức chế, cảm thấy điểm tĩnh khi đang có xung đột bên trong, có những suy nghĩ giận dữ nhưng đồng thời biết bản thân là người tốt. Thông qua các buổi trị liệu với thân chủ của mình, tôi nhận thấy cách nhìn bản thân theo những phần khác nhau này mang đến cho người trưởng thành sự tự do, lòng cảm thông, sự thư thái và khả năng điều tiết những trải nghiệm khó khăn. Và vì đã thấy được sức mạnh tiềm tàng của nó, tôi rất hứng thú với việc áp dụng cách tiếp cận này với trẻ nhỏ, giúp bọn trẻ sớm làm quen với ý niệm rằng cảm giác, cảm xúc và suy nghĩ là những phần khác nhau mà chúng ta có thể kết nối chứ không phải là những trải nghiệm chiếm hữu khiến chúng ta suy kiệt.

Khi xem xét đồng thời lý thuyết hệ thống gia đình nội tại và học thuyết gắn bó, chúng ta sẽ có hiểu biết thấu đáo về sự phát triển của trẻ trong những năm đầu đời. Học thuyết gắn bó nhận định rằng trẻ em phải học cách gắn bó với cha mẹ để sinh tồn và thỏa mãn các nhu cầu của bản thân. Bằng cách này, đứa trẻ tiếp nhận môi trường xung quanh thông qua lăng kính “Điều gì làm tăng tối đa khả năng sinh tồn của mình?”. Và khi chúng ta kết hợp hiểu biết này với cách tiếp cận của IFS, lăng kính đó sẽ trở nên đa chiều hơn: “Những phần nào của mình đang được kết nối, được quan tâm, được thấu hiểu và được chấp nhận? Mình nên phát huy điều này để làm tăng tối đa cơ hội gắn bó và vì vậy cũng làm tăng tối đa khả năng sinh tồn của mình! Đây là những phần con người tốt đẹp của mình, những phần có thể kiểm soát và dễ dàng gần gũi với người khác – là những phần đầy tính kết nối. Còn những phần nào của mình khiến mọi người ngại gắn kết và trở nên xa lánh? Mình nên cất những phần này đi, bởi vì chúng ngăn trở khả năng gắn bó và do đó đe dọa khả năng sinh tồn của mình. Những phần này của mình xấu, tệ, quá đáng và không thể được yêu quý - là những phần không có tính kết nối".

Trẻ em học những bài học này dựa trên những tương tác với cha mẹ – dĩ nhiên là không phải thông qua lời nói, mà qua trải nghiệm. Chúng nhận ra điều gì khiến cha mẹ mỉm cười, hỏi han, ôm ấp và hiện diện bên chúng ("Con cảm thấy vậy cũng không sao cả. Mẹ đang ở ngay đây. Con cứ nói cho mẹ nghe, mẹ đang nghe con đây") và điều gì khiến cha mẹ dùng hình phạt, chối bỏ, trách mắng và xa lánh chúng ("Đi về phòng con ngay! Mẹ sẽ không nói chuyện với con nếu con cứ như vậy!"). Nhà tâm lý học Richard Schwartz, cha đẻ của hệ thống gia đình nội tại, đã viết: "Trẻ em thường phát triển xu hướng diễn dịch các trải nghiệm thành căn tính của bản thân: 'mình không được yêu thương' trở thành 'mình không đáng được yêu thương', và 'một chuyện rất tệ vừa xảy đến với mình' trở thành ‘mình là người rất tệ’. Nói cách khác, trẻ em biến trải nghiệm với người chăm sóc thành những thông điệp khái quát hóa về việc chúng là ai. Những cảm xúc khiến chúng ta (cha mẹ) gia tăng sự kết nối – nghĩa là quan tâm và có mặt bên các con – cho bọn trẻ biết rằng những phản cảm xúc đó của bản thân chúng là những phản có thể kiểm soát, đáng được yêu thương và xứng đáng; còn những cảm xúc mà chúng ta dập tắt, trừng phạt, chối bỏ hoặc có biến thành một thứ gì đó dễ chịu hơn thì sẽ khiến bọn trẻ học được rằng những phản phát sinh cảm xúc này của chúng là những phần phá hoại, xấu xa, không đáng được yêu thương hoặc quá đáng".

Đây chính là lý do vì sao việc nhận ra sự khác biệt giữa hành vi với cảm xúc và trải nghiệm bên dưới hành vi là rất quan trọng. Việc kiềm chế một đứa trẻ mất kiểm soát và đang bộc lộ "hành vi xấu” là cần thiết, nhưng việc nhận ra bên dưới hành vì đó là một đứa trẻ (hay một phần của đứa trẻ, theo cách nói của hệ thống gia đình nội tại) đang đau khổ, có những nhu cầu không được thỏa mãn và đang tha thiết cần được kết nối cũng vô cùng cần thiết. Trẻ em không tiếp nhận những tương tác của chúng ta với chúng như những phản ứng đơn thuần đối với một tình huống cụ thể mà như một thông điệp về việc chúng nên trở thành người thế nào. Vì vậy khi con của bạn nói "Con ghét em bé, hãy trả em về bệnh viện đi!" và bạn quát lên "Đừng nói vậy với em con, con phải thương em chứ!", thì bài học con bạn tiếp thu được không phải là lời nói của chúng không thích hợp. Con bạn học được rằng ghen tị và tức giận là thứ nguy hại, là những cảm xúc chúng hoàn toàn không nên có. Chính vì vậy, việc tách biệt hành vi của trẻ (có thể "xấu") với bản chất của chúng (bản chất tốt) là rất quan trọng. Tất nhiên là chúng ta không muốn các con đánh nhau (hành vi), nhưng chúng ta muốn chúng hiểu chúng có quyền cảm thấy tức giận (cảm xúc). Đương nhiên là chúng ta không muốn các con ăn vạ ở một cửa hàng (hành vi), nhưng chúng ta muốn các con biết rằng chúng có quyền ham muốn và nói ra suy nghĩ của mình (cảm xúc). Đương nhiên là chúng ta không muốn các con chỉ ăn mỗi ngũ cốc vào bữa tối (hành vi), nhưng chúng ta muốn các con tin rằng chúng có quyền đối với cơ thể của chúng và có thể tự ý thức điều gì khiến chúng cảm thấy thoải mái ở bên trong (cảm xúc). Nếu chúng ta không thẳng thắn công nhận cảm xúc đằng sau hành vi của các con và thể hiện cho chúng hiểu rằng chúng ta yêu chúng ngay cả khi chúng cư xử quá đáng, thì bọn trẻ sẽ đánh đồng hành vi với cảm xúc. Chúng sẽ học được rằng việc đảm bảo cơ hội gắn bó sẽ phải đánh đổi bằng việc chối bỏ những cảm xúc đằng sau hành vi của bản thân, từ đó dẫn đến việc hình thành những mô thức mối quan hệ không lành mạnh về lâu dài.

Đúng vậy, những năm đầu đời vô cùng quan trọng. Đó là giai đoạn con cái chúng ta được chuẩn bị để trở thành những người lớn tự tin, độc lập, có khả năng tự ý thức với những mối quan hệ lành mạnh giữa người với người... hoặc không được chuẩn bị. Đương nhiên, không phải mọi chuyện đều luôn trắng đen rõ ràng như vậy, luôn có những cơ hội để nuôi dưỡng những phẩm chất này ở mọi giai đoạn của cuộc đời. Tuy nhiên, vào những giờ phút bạn mệt mỏi với đứa con mới chập chững biết đi của mình, khi bạn tự hỏi liệu tất cả những nỗ lực của mình có xứng đáng không (bởi vì việc làm cha mẹ vào những năm đầu đời của trẻ thật sự mất nhiều công sức!), hãy yên tâm rằng việc đó hoàn toàn xứng đáng. Công sức bạn đã bỏ ra luôn luôn xứng đáng.

- Trích sách “Con cái chúng ta đều tốt” của tác giả Becky Kennedy do First News chuyển ngữ và phát hành