Fromentin nói: “Bởi du khách tha hồ được tìm tòi nghiên cứu và nếu anh ta coi sự chuẩn xác là quy tắc, thì anh ta sẽ biết thông qua những bức chân dung được sao chép tỉ mỉ chuẩn xác, cách người dân hải ngoại ăn mặc, chải chuốt và đi đứng thế nào. Anh ta sẽ tìm hiểu vũ khí của họ là gì, bởi hội họa mô tả chúng không kém gì văn chương sử liệu. Bộ yên cương cũng cần được hiểu rõ; rồi vô vàn thứ khác cũng phải nghiên cứu..." Tất cả những điều này hiển nhiên tồn tại trong sáng tác của người bản xứ học Trường Mỹ thuật Gia Định, nhưng theo một cách uyên bác hơn, tinh tế hơn, đó là thứ cảm xúc phổ quát và trường tổn của cái đẹp tỏa ra từ những tác phẩm bản địa riêng biệt.
Được phong kín trong tứ thơ hương xa vốn làm nên dấu ấn cho tác phẩm nghệ thuật cách vời về không gian, những cảnh đời sống Á châu này còn lưu giữ cả những vết tích xa xưa của một chiều dài lịch sử và một nền văn minh. Được lựa chọn bởi giá trị hình tượng và thời cuộc, sẽ là thiếu sót trong đánh giá nếu ta không đặt những tác phẩm này trên một phông nền giàu tính huyền thoại và cổ tích đáng ngưỡng mộ. Ngoài giá trị tư liệu, chúng còn ý nghĩa hơn nữa ở chỗ chúng gợi mở nhiều điều cho tâm trí. Trong tư thế cầu nguyện của một tu sĩ, ta sẽ nhận ra biểu hiện của lòng mộ Phật cũng như sự mời gọi đến với minh triết thầm lặng của những nhà tu khổ hạnh. Trong sự tôn kính ngưỡng vọng của một con người trước bàn thờ tổ tiên, ta thấy một tín ngưỡng lâu đời và những đức hạnh cao đẹp mà Khổng Tử đã dạy. [...]
Vì vậy, những tác phẩm hội họa này thật gần gũi với tất cả những ai đã “thân thuộc tập quán và trìu mến nâng niu ký ức” để hiểu Đông phương. Còn những ai từng biết đến dải đất này, nay rời xa và nuối tiếc một giấc mộng đẹp, cũng như những ai đã ở đây và được ưu ái vô vàn, thì chúng sẽ gợi nhớ nét quyến rũ lạ thường của một đất nước huyền hoặc, nơi dập dờn những giấc điệp của Baudelaire, “nơi thời gian bước chậm lại và lắng nhiều suy tư hơn, nơi đồng hồ điểm tiếng hạnh phúc sâu hơn và vang hơn".
[...]
Đầu tiên chúng ta sẽ gặp gỡ cảnh sắc miền Cửu Long giang, tức vùng châu thổ của con sông Cái với những nhánh tỏa ra như chín con rồng. Ta sẽ thấy thôn quê lúc thì ẩn hiện trong sương sớm, lúc thì rực rỡ dưới cái nắng nhiệt đới, nổi bật trên phông nền đó là hình dáng đàn trâu lông xám đang hít thở bụi phù sa nồng nặc. Thảng hoặc có một đứa trẻ cưỡi trên lưng con vật to lớn, hay một chú chim sáo đậu trên lưng trâu, nếu không thì người bạn của nhà nông ấy đang ngoan ngoãn cày bừa. Con trâu là một phần của những bức phong cảnh đồng quê mà sự an hòa thường được tạo nên bởi những tông màu trung tính. Nhưng khi những cơn mưa rào đầu mùa kéo đến và mạ non lấp ló trên ruộng thì cũng là lúc bản hòa âm màu xanh lục bắt đầu. Màu xanh sẫm của cây xoài sẽ xoa dịu những sắc non hơn, lạ hơn như màu ngọc bích của cây chuối, màu ngọc lục bảo của ruộng mạ, sắc lục trầm của rừng ngập mặn, sắc bóng của dừa nước, sắc rợ của tán lá bị mưa xối.
Phải lưu ý rằng chân trời Nam kỳ có sắc màu đa dạng là bởi khí quyển của nó rất đặc trưng, mà điều này chỉ nhận thấy được sau một thời gian đã quen thuộc gắn bó. Không khí chứa đầy hơi nước, ánh sáng xuyên qua những giọt li ti vô hình sẽ phân tán và thay đổi tùy theo hình khối di động và khoảng cách quan sát. Chính bởi vậy mà những tông màu đỏng đảnh như ngọc berin hay đá opal thường chiếm lĩnh nền trời. Khi đỉnh trời rực sáng chói lọi thì những chiếc bóng sẽ trở thành những quầng sáng nhòe. Fromentin nhận xét: “Thứ bóng đổ ấy thật khó diễn tả; nó vừa tối tăm lại vừa trong suốt không màu, như một hố nước sâu... Những dáng hình trôi dạt trên đó trong một bầu khí quyển vàng vọt xóa nhòa mọi đường nét."
Những du khách vội vã đi cho hết hành trình đã viết rằng Nam kỳ là một xứ buồn tẻ, đơn điệu, là một miền thôn dã trù phú nhưng không đa dạng. Thật là một thứ thông tin tóm lược sai lầm tệ hại! Trên thực tế, nơi đây có cả đất đai màu mỡ và cũng có chỗ ngập trong nước mặn, vậy nên mới có những tông màu hổ phách, những tông màu mờ mịt như bụi phấn và lại có cả những sắc ấm nóng của đá ong. Chỗ này sáng bừng màu đỏ gạch; chỗ nọ hòa sắc tía của đất bùn. Sự hòa điệu tự nhiên của ánh sáng, lá cây, mặt đất càng làm cho một chủ đề ban sơ thêm biến ảo mãi như dáng hình mềm mại, thoắt ẩn thoắt hiện của con rồng.
Trên mảng màu xanh thẫm hay vàng óng của cánh đồng lúa điểm xuyết những bóng cò trắng hay một bóng diệc xám vút qua. Trên mặt nước phẳng như tờ có bầy uyên ương lướt đi. Trên những đường mòn xuyên rặng dừa nước có đoàn người nối đuôi nhau. Gần ruộng mía đang trổ bông có cô thôn nữ oằn mình dưới sức nặng của quang gánh. Cô đi về phía mái nhà tranh lấp ló sau bãi bắp. Trời đổ mưa rào cô sẽ ra ruộng lúa gặp những người chị em cùng nhau cấy mạ non xuống bùn với một động tác nhịp nhàng, thoăn thoắt. Xa kia, dưới tán râm mát những lá thuốc đã đổi màu lục đậm. Đăng nọ, trâu bò kéo cối xay mía, những bếp lò tỏa hơi, một tấm phản đặt khuôn tre làm đường mía. Ở một góc khác, người nông dân lực điền đang tuốt lúa bên một thúng mây. Ở gần hơn, hai người phụ nữ đang xát gạo bằng một cối gỗ. Và cuối cùng là phu phen chất từng bao gạo lên ghe.
Như vậy, mọi hoạt động của nhà nông đều được tái hiện một cách sinh động lạ thường. Chắc chắn người nông dân làm ra lúa gạo là một phần cốt yếu của chuỗi hoạt động ấy. Tuy nhiên, đối với dân tộc ưa chuộng tôm cá và sinh sống trên một vùng châu thổ chằng chịt kinh rạch này thì có một khía cạnh sinh hoạt khác xứng đáng được ghi nhận. Đó là hoạt động đánh bắt cá của những chiếc thuyền tam bản lặng lẽ đi vào những con rạch im lìm dưới tán cọ. Trên những đường thủy tấp nập ghe bầu này có những ngôi nhà nổi bồng bềnh chứa chấp cả một cộng đồng thủy thủ và ngư dân. Ta sẽ thấy những chiếc ghe đi biển với mũi cao và đáy rộng; những thuyền con mỏng nhẹ, những thuyền độc mộc neo đậu bên bờ sông. Tiếp đến là thuyền tam bản với mái che dạng vòm, những chiếc xuồng đơn sơ treo vài mảnh lưới. Mỗi loại thuyền có một truyền thuyết riêng thú vị nhưng tất thảy đều vẽ hai con mắt lớn hung dữ, bởi lẽ ngày xửa ngày xưa dân đi biển nghe lệnh triều đình dùng đôi mắt sơn trên vỏ tàu để đuổi loài thủy quái.
[...]
Góc chợ nhỏ ngoài trời là một trong những nét độc đáo nhất của đời sống Á châu, nó sẽ giúp ta hiểu được thế nào là cảnh tượng chen chúc ở xứ này. Dưới cái nắng đổ lửa, góc chợ mở ra trước mắt ta hàng ngàn hoạt cảnh đầy màu sắc. Ta nhận ra người đàn bà nông dân nhờ cái khăn rằn chít lại dưới cằm. Ta thấy những tà áo dài sáng màu, hồng, xanh lục hay tím hoa cà rực rỡ dưới nắng vàng. Và nếu nhìn kỹ hơn vào chi tiết ta sẽ hiểu nó có ý nghĩa ra sao. Những trang sức này chứng tỏ thị hiếu của thiếu nữ An Nam cũng giống như thị hiếu chung của tất cả phụ nữ Á châu. Cách bối tóc sau gáy cho thấy cô nàng rất truyền thống. Có người mang cái guốc, người khác thì mang dép quai hậu đế bằng kiểu cũ. Lại có người thích sự mới lại, vấn tóc rất thời thượng trong khi những cô bán hàng ngồi phơi dưới nắng chỉ đội cái nón chệc. Ở đây ta thấy có tiệm áo quan, mở cửa cho bất kỳ ai muốn sắm một bộ thoải mái và cứng cáp ngay khi còn tại thế. Đằng xa là một đám tang đầy màu sắc đang diễn ra và không làm kinh động đến ai cả.
Trong một ngôi nhà lợp mái rạ, ta thấy có bàn thờ tổ tiên, đây là truyền thống của một dân tộc đặt đạo hiếu lên hàng đầu. Nếu không có những phụ kiện sặc sỡ thì chữ Thần [sic], viết bằng mực đen trên giấy đỏ sẽ là biểu tượng kép cho hạnh phúc và sự gắn kết với quá khứ của tổ tiên ông bà. Trong gian nghi ngút khói, ta sẽ thấy một vuông đất sét đóng khung gỗ, bên trên đặt ba hòn đá của bếp lò. Đó là chỗ của Ông Táo, vị thần bếp mỗi năm sẽ báo cáo với Ngọc Hoàng mọi chuyện xảy ra trong ngôi nhà. Chúng ta sẽ thấy bàn thờ Ông Táo đôi khi được đơn giản hóa thành một góc kệ đặt vài cây nhang. Nhưng hãy nhớ rằng ba hòn đá không phải muốn để sao cũng được, chừng nào không còn hữu dụng nữa thì người ta đem tới bỏ gần tường bao đền chùa hoặc dưới gốc cây đa. Giờ ta hãy xem một bữa ăn gia đình dọn trên manh chiếu hay tấm phản. Thứ thu hút ngay lập tức là chén, muỗng bằng sứ màu lam. Qua khe cửa hé mở, ta thấy đàn gia súc gồm heo, vịt, gà đang kiếm ăn gần những lu lớn màu nâu dùng đựng nước mưa. Đó cũng là ý tốt của gia chủ giúp cho khách đi đường vơi cơn khát.
[...]
Và như thế, từ chân trời bát ngát của châu thổ tới cổng chùa cổng đến, từ sinh hoạt nông thôn tới sinh hoạt thành thị, từ nỗi u hoài của lăng mộ đến cảnh trí hoang đường của sân khấu và nghệ thuật cổ xưa, Ảnh tập trường Gia Định (École de Giađịnh) dẫn lối cho ta khám phá những tập quán và tinh thần của một dân tộc. Chắc chắn sẽ có những ảnh tập phong phú hơn, uyên bác hơn, giá trị hơn nhưng không bộ sưu tập nào trung thực hơn, chân xác hơn hào hùng hơn những sáng tác bản địa này. Nó giống như một lời mời gọi đối với những ai chưa từng bị thôi thúc lên đường. Nó sẽ đem đến ký ức về những vùng đất nóng bỏng, rực rỡ đối với những người đã từng khám phá và hiểu biết Á châu, khiến họ sống lại những cảm xúc mãnh liệt hơn, riêng tư hơn và sống động hơn. Và đây chắc chắn là lý do tại sao, chất thơ của hình ảnh lại rung động hơn chất thơ của mọi sự hồi tưởng đẹp đẽ khác. Nó mang dấu vết của tất cả ảo mộng đã từng theo ta trên hành trình khám phá thế giới, dấu vết của mộng ước và băn khoăn, của mê ly ngây ngốc và của những nỗi thất vọng. Nó là phản ánh sống động những trải nghiệm quá khứ và tựa hồ một tâm sự thầm kín tự cõi lòng.
- Trích sách “Việt Nam - Những tiếng vọng từ quá khứ”