Nhà văn Ma Văn Kháng và
Nhà văn Ma Văn Kháng và "Chim bay về trời sau cơn mưa"
"Chim trời bay về sau cơn mưa" là tập 10 truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng với hai đề tài quen thuộc, đã trở thành dấu ấn của tác giả: miền núi Tây Bắc và những câu chuyện về sự biến chuyển của cảnh vật, con người trong cuộc sống hiện đại.

Dưới những bóng cau, Bài ca Trăng sáng, Hạng A Tráng, Mùa gặt ở Na Lin, Vợ chồng Mìn và những đứa con, Bên bờ suối Vạch là những truyện ngắn cho thấy cảm hứng bất tận của nhà văn với vùng núi Tây Bắc, nơi linh giác của Ma Văn Kháng ngay lập tức được phát động từ lần đầu ông đặt chân đến miền cận trên của tổ quốc này, với sự mê hoặc với thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây.

Năm truyện ngắn này ghép thành một bức tranh nhiều màu sắc và tuyệt đẹp về giai đoạn cuối những năm kháng chiến chống Mỹ đến tận mới sau giải phóng của mảnh đất Lào Cai (mà tên gọi thân thuộc hơn và từng được sử dụng là Lao Cai). Chọn lựa giai đoạn 1970 - 1980 này, tập truyện như phần nào nhấn vào sự thay đổi, biến động của hoạt động cách mạng cũng như cách nhìn nhận về cuộc sống và thời cuộc của những dân tộc miền núi nơi đây.

Ở họ vẫn toát lên tinh thần đấu tranh thuần khiết, mãnh liệt, chân thành và anh dũng cho đất nước, vẫn hướng mình tới những đổi mới sau khi giải phóng với ước mong cuộc sống tốt đẹp trong một niềm tin vào Đảng, nhà nước. Nhưng cũng ở những con người chất phác đó, họ kín đáo, giấu mình trong những phong tục, tập quán cổ xưa nhất, lấy đó làm nguồn lực tinh thần, làm giá trị cốt lõi để tiếp nhận thời đại mới, để chủ động phá bỏ biết bao định kiến, áp buộc của thời chiến đã qua.

Đó là anh thanh niên Hạng A Tráng kiên trì xung phong tòng quân ra tiền tuyến trong suốt một năm liền, tự tôi luyện sức vóc mình bằng những đường cày nặng nhọc nhất trên những mảnh đất khô cằn, khó khăn nhất của bản Y Lìn Hồ. Là Hòa trong Dưới những bóng cau, cô nhân viên trẻ tuổi dưới xuôi lên vận động về công cụ sản xuất cho bà con người Tày, cô gái dần hòa mình với đời sống của người dân Tày, cảm nhận tình yêu thương và sự đùm bọc ấm áp của từng người dân làng chân chất.

Hay tình cảm của vợ chồng Mìn – Cơi thấm đậm sự chịu thương, chịu khó, sự thấu hiểu và ủng hộ vợ từ người chồng và sự mạnh mẽ, quyết liệt và tình yêu vô bờ bến của người vợ Mông với người chồng khuyết tật… Mỗi câu chuyện là mỗi phận con người nhưng đều tựu chung lại ở sự gắn kết tình người, như cái cách thiên nhiên khắc nghiệt, hoang hoải, kỳ vĩ và mê mị nơi dọc hoành Hoàng Liên Sơn tạc lên thể xác và con tim của từng tộc người thiểu số.

 

“Cuối cùng thì trong một cảm xúc dâng tràn, Mìn nhìn vào cặp mắt của vợ, vừa trang trọng vừa thân thiết, nói rằng, anh phải nhiều lần cám ơn chị nữa mới phải. Vì nhờ có chị  mà anh vẫn đi được con đường anh đã chọn lựa, đã đi từ trẻ đến giờ. Một con đường đi từ trẻ đến giờ. Con đường đương đầu với sự sống và trở thành một con người tự đứng dậy từ chết chóc, thương tật. Nhờ có chị, anh đâu có gục ngã quy hàng, hoặc đi con đường khác!” (Vợ chồng Mìn và những đứa con)

 

Rời xa miền núi Tây Bắc, nhà văn Ma Văn Kháng dẫn dắt người đọc vào hành trình ngược không gian và thời gian trong tâm trí những con người đã đi qua một thời xưa cũ, nơi còn đó một giai đoạn kháng chiến anh hùng, bom đạn khốc liệt của đất nước, ở lại đó những người lính, người con anh dũng đã hi sinh, những nhân tài đất nước giờ chỉ thuộc về miền kí ức.

Tròng trành trong nỗi nhớ là sự cô đơn của những con người đã đi qua tháng năm như ông Nam trong Thành phố miền biên, người luôn hoang hoải một nỗi nhớ về người bạn, liệt sĩ, nhà văn, nhà báo Bùi Nguyên Khiết. Hay cũng là Nam, người bị bỏ lại sau chiến tranh, mình mang thương tật, bươn chải giữa chốn đô thị tấp nập, thiếu sự ấm áp của tình người trong Những ngày xa xưa...

Nhà văn Ma Văn Kháng say mình trong những câu từ khắc tả thiên nhiên hùng vĩ Tây Bắc, cũng như muốn dẫn dụ người đọc vào không gian văn hóa đa sắc màu nơi đây, với những lễ hội hoa ban, lồng tồng, hay những chi tiết nhỏ nhất, khơi lên sự tò mò về trang phục, lao động, huyết tộc và sự bình dị, hoang sơ tuyệt đẹp của con người miền núi. Sau đó, dòng văn của ông lại trầm lắng, u buồn và đượm đầy tiếc nuối khi khơi lên những chiêm nghiệm về cuộc đời trải nhiều thăng trầm, cách con người đối diện với mọi đổi thay, khi thì lạc quan, lúc lại buông xuôi mà uất ức. Nhưng tựu lại vẫn là những niềm hi vọng vào tình người – thứ gắn kết vô hình nhưng lại bền chặt nhất của nhân loại, để con người ta sống tiếp, sống cho trọn đời người.

Tags: