Hơn 200 năm phục vụ người yêu sách: Nhà xuất bản HarperCollins và những thăng trầm với sứ mệnh đem tri thức cho nhân loại
Hơn 200 năm phục vụ người yêu sách: Nhà xuất bản HarperCollins và những thăng trầm với sứ mệnh đem tri thức cho nhân loại
Lịch sử của một trong nhà xuất bản nổi tiếng nhất thế giới, HarperCollins

Trong hơn 200 năm, cái tên Harper đã đồng nghĩa với sách in, nuôi nấng ngành xuất bản của Mỹ từ thời kỳ sơ khai đến khi thống trị thế giới trong thế kỷ 20. Cái tên "Harper" đã tô điểm cho các trang sách thuộc vô số dòng từ các ấn bản sách kinh điển đến sách giáo khoa cho mọi lứa tuổi, từ các sách bán chạy bìa cứng và bìa mềm cho đến các tạp chí nổi tiếng của công ty được phát hành trong nửa sau của Thế kỷ 19 (Tạp chí Harper, Tuần báo Harper và Tạp chí Harper's Bazar).

Nhà xuất bản Harper không chỉ đóng vai trò trụ cột trong sự xuất hiện của ngành sách ở Hoa Kỳ - với tên tuổi của các nhà văn vĩ đại như Conan Doyle, Thackeray, chị em nhà Bronte, Melville, Henry James và Mark Twain - mà còn định hình tâm trí của nhiều thế hệ độc giả qua sự chính xác và lão luyện của anh em Harper trong việc lựa chọn những cuốn sách có giá trị. Khi thập niên 1990 kết thúc, HarperCollins đã trở thành một trong những nhà xuất bản tiếng Anh lớn nhất thế giới, thuộc tập đoàn truyền thông khổng lồ đứng thứ 3 thế giới, News Corporation Limited.

Năm 1817, James Harper, 22 tuổi và em trai John, khi đó 20 tuổi, đã thành lập công ty in ấn J. & J. Harper tại thành phố New York. Với dân số 120.000 người, New York là một địa điểm hoàn hảo cho tham vọng của 2 anh em. Họ muốn sản xuất và tiếp thị sách có chất lượng, được in ấn chuyên nghiệp với nội dung phải thật xuất sắc, vì "sẽ không có tác phẩm nào được J. & J. Harper xuất bản mà lại không thú vị, có tính giáo dục và tôi luyện đạo đức."

Công việc đầu tiên của anh em là in 2.000 bản cuốn "Morals" của Seneca cho một người bán sách tên là Evert Duyckinck. Sau khi hoàn thành dự án (với sự giúp đỡ của hai em trai của họ, Wesley và Fletcher), người anh trai đã lấy được một đơn đặt hàng thứ hai với Duyckinck. Sau đó, họ quyết định in ấn bản riêng của cuốn "An Essay Concerning Human Understanding" do Locke viết, và nhà xuất bản Harper đã ra đời. Hứa hẹn sẽ in tên của người bán sách trên trang tiêu đề, Harpers đã nhận đủ tiền hoa hồng để mua thêm thiết bị, mở rộng hoạt động và chuyển trụ sở hai lần (cả hai lần đều do hỏa hoạn) trước khi chuyển về tại 82 Cliff Street vào năm 1825.

Chuyển đến Cliff Street báo hiệu một kỷ nguyên mới cho Harpers, vì cả bốn anh em đều đang tham gia vào công ty. Wesley đã tham gia vào năm 1823 và Fletcher vào năm 1825, với mức đóng góp 500 đô la mỗi người. Trong những năm trước, hội anh em đã học được một số bài học quan trọng: đảm đủ đủ cả sách đang lưu hành lẫn trong kho; sản xuất các phiên bản chất lượng tốt hơn nhưng ít tốn kém hơn so với đối thủ cạnh tranh; và là những người đầu tiên ra bến khi tàu cập cảng. Vì không có luật bản quyền quốc tế vào thời điểm đó, các nhà xuất bản đầy tham vọng đã bủa vây các bến cảng để lấy các bản thảo mới nhất từ ​​Vương quốc Anh, rồi nhanh chóng đưa chúng vào nhà in trước các công ty cạnh tranh. Nhà Harpers đã trở nên lão luyện trong các buổi tập luyện tới mức họ thường sẽ ra một cuốn sách phiên bản của nước Mỹ trong vòng 24 giờ.

Anh em nhà Harper

Vào những năm 1830, danh tiếng xuất sắc của Harpers đã khiến họ trở thành công ty in ấn lớn nhất nước và hội anh em tiếp tục đưa các tác giả mới và quan trọng vào nền văn học Mỹ, cả dưới hình thức sách phổ thông và sách giáo khoa. Năm 1832, cuốn tiểu thuyết Robinson Family Swiss của Johann Rudolf Wyss được phát hành như một phần của Thư viện Harper's Boy's Girl, một nhánh của Thư viện Gia đình nổi tiếng của công ty. Năm sau, 1833, một máy in hơi nước mang tính cách mạng đã được lắp đặt và công ty đổi tên thành Harper & Brothers để công nhận những nỗ lực của Wesley và Fletcher. Hai năm sau, Fletcher đã phác thảo một trong những hợp đồng sớm nhất giữa một nhà xuất bản người Mỹ và tác giả người Anh Lord Bulwer-Lytton, người mà các tác phẩm "The Last Days of Pompeii, Rienzi, The Last of the Barons" là những cuốn sách bán chạy nhất của Harper, và công ty đã cho ra mắt một bộ sách giáo khoa viết bởi Charles Anthon của Đại học Columbia.

Thập kỷ tiếp theo đã mang lại nhiều sản phẩm bán chạy nhất cho nhà xuất bản Harper, bao gồm "Two Years Before the Mast" của nhà văn Dana, Từ điển Webster rút gọn và hợp đồng cung cấp cho hệ thống trường học của bang New York. Công ty cũng gặp phải sự cạnh tranh ngày càng mạnh hơn, với các đối thủ thậm chí đột nhập vào nhà in để đánh cắp bản sao của các tựa sách sắp ra mắt. Vào tháng 4 năm 1844, trong khi dự án lớn nhất của công ty, Harper's Illustrated và New Pictorial Bible, đã sẵn sàng để xuất bản, James Harper đã được bầu làm Thị trưởng thành phố New York. Cuối những năm 1840 đã mang đến sự xuất bản của cuốn sách Vanity Fair, do Thackeray viết, cũng như Jane Eyre và Wuthering Heights của chị em Bronte. Cuốn sau đã gây ra sự xôn xao đáng kể vì ngôn ngữ "tục tĩu" của nó. Một người bán sách ở Boston thậm chí đã trả lại các bản sao, từ chối nhập những cuốn sách tục tĩu như vậy.

Sự ra mắt của dòng xuất bản mới xuất hiện với Tạp chí hàng tháng của Harper vào tháng 6 năm 1850, được tạo ra bởi James và sau đó được điều hành bởi Fletcher. Một chương trong cuốn sách mới của Herman Melville đã xuất hiện trên tạp chí Harper's vào tháng 10 năm 1851 để công khai việc phát hành cuốn Moby Dick vào tháng 11. Tuy nhiên, nó đã không nhận được sự tôn trọng đáng kể cũng như sự phổ biến cho đến thế kỷ tiếp theo. Đến tháng 12 năm 1853, Harpers đã điều hành 41 máy in, mười giờ một ngày, sáu ngày một tuần, trung bình 25 cuốn mỗi phút, tạo ra thu nhập khoảng 2 triệu đô la từ việc bán hàng. Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1853, Harpers phải đối mặt với thảm họa thứ ba lại liên quan đến lửa. Mọi thứ trong trụ sở ở Cliff Street đã bị phá hủy, chỉ cứu lại được một vài đống giấy tờ và một số đĩa in trị giá 400.000 đô la đã được khóa trong một hầm ngầm. Thiệt hại vượt quá 1 triệu đô la, chỉ có 20 phần trăm được bảo hiểm. Đến cuối ngày, Harpers tuyên bố họ sẽ xây dựng lại. Dòng thư động viên và đóng góp đổ về từ khắp đất nước. Kết quả là hai tòa nhà mới được xây dựng từ dầm sắt và kèo (được coi là chống cháy) mở ra tại Quảng trường Franklin, hoàn thành vào giữa năm 1855.

Harper's Weekly, "Journal of Civilization" của Fletcher, bắt đầu xuất bản vào năm 1857 với các minh họa xuất sắc và một loạt các chủ đề ngày càng mang tính chính trị hơn. Trong những năm 1860 và 1870, các nhà xuất bản đã giảm giá sách xuống mức thấp mới để cạnh tranh, buộc nhiều bên phải chịu lỗ. Trong khi Harpers mất tiền với nhiều thương hiệu của mình, công ty vẫn sống sót và thậm chí ra mắt tạp chí định kỳ thứ ba, Harper's Bazar (sau này là Bazaar), vào tháng 11 năm 1867. Vào ngày Phục sinh năm 1869, sau khi bị thương khi ngã khỏi chiếc xe ngựa của mình, James Harper đã mất. Chưa đầy một năm sau, Wesley qua đời vào ngày lễ tình nhân năm 1870. Số phận của anh được theo sau bởi cái chết của John (tháng 4 năm 1875) và Fletcher (tháng 5 năm 1877). Như để tưởng nhớ, một ấn bản Latin của cuốn Morals, Seneca, cuốn sách đầu tiên được in bởi James và John, được phát hành chỉ vài ngày trước khi Fletcher chết. Nó đánh dấu sự kết thúc của một kỷ nguyên. Năm người con trai thế hệ thứ hai và nhiều Harpers thế hệ thứ ba đã điều hành công ty trong nhiều năm về sau.

20 năm cuối của thế kỷ 19 được đánh dấu bằng một số kết quả cao kỷ lục, nhưng cũng có những lúc thua lỗ tàn khốc. Điểm cao trào bao gồm việc xuất bản cuốn Ben-Hur (1880) của Lew Wallace và ký hợp đồng độc quyền với Samuel Clemens cho các cuốn sách lấy bút danh Mark Twain của ông (1895). Điểm tồi tệ nhất là khi Harper vỡ nợ vào tháng 12 năm 1899. Mặc dù Harper & Brothers đã được tổ chức lại thành một công ty cổ phần vào năm 1896 với sự giúp đỡ tài chính của J.P. Morgan, lợi nhuận đã không tăng và nợ nần tiếp tục dồn lại. Không thể đáp ứng các khoản thanh toán lãi, Harper lần đầu tiên được giao lại cho S.S. McClure, một công ty con của Doubleday & McClure, sau đó là Đại tá George Harvey, người khởi xướng việc tái tổ chức toàn bộ công ty vào ngày 17 tháng 2 năm 1900. Harvey đã tự đưa mình làm chủ tịch với sự bảo trợ của Morgan, các chủ nợ khác, và mốt số người nhà Harpers đã rời đi.

Trong vòng 15 năm, Đại tá Harvey đã khôi phục lại hình ảnh tồi tàn của Harper với những bữa tiệc xa hoa có sự tham dự của các chính khách (Tổng thống Taft tham dự một năm 1912), các tác giả nổi tiếng và giới tinh hoa tại thành phố New York. Mặc dù Harper's Bazar đã được bán cho William Randolph Hearst vào năm 1913, nhưng các khoản nợ của Harper vẫn chưa giảm bớt. Vào tháng 5 năm 1915, Harvey từ chức và C.T. Brainard nắm quyền kiểm soát với sự giúp đỡ của hai phó chủ tịch: Thomas Wells và Henry Hoyns (bắt đầu làm nhân viên bán hàng cho công ty vào năm 1884). Tuy nhiên, phong cách của Brainard lại trái ngược với Harvey hào nhoáng, và mặc dù nợ nần đã bị cắt giảm, nhiều tác giả quan trọng (bao gồm Joseph Conrad, Theodore Dreiser, và Sinclair Lewis) đã từ bỏ công ty. Năm 1916, tạp chí định kỳ thứ hai của công ty, Harper's Weekly, được mua lại bởi tờ Independent. Để kỷ niệm một trăm năm của Harper vào năm 1917, những tấm thiệp được chạm nổi bằng vàng đã được gửi đến các nhà xuất bản và tác giả trên toàn thế giới, và cuốn Harper Cent Century 1817-1917 dài 118 trang đã được biên soạn, với thư chúc mừng của Tổng thống Woodrow Wilson chiếm vị trí trung tâm.

Giai đoạn xuất bản từ khi bắt đầu Thế chiến I đã mang lại nhiều cột mốc cho công ty lâu đời này. Năm 1923, trụ sở tại Quảng trường Franklin đã được chuyển giao cho Công ty Morgan với giá 400.000 đô la và Harper chuyển đến 49 East 33 Street (một tòa nhà khác đã được thêm vào năm 1930). Công ty sau đó đã phát hành cổ phiếu ưu đãi cho Morgan và thêm 25.000 cổ phiếu cổ phiếu phổ thông để huy động vốn. Năm 1925, một biên tập viên tên là Eugene F. Saxon đã tham gia Harper và thiết lập một tiền lệ mới cho dòng văn học chất lượng. Trong số các nhà văn mà ông đã ký có E.M. Delafield, Lloyd Douglas, Julian Green, Richard Hughes, Aldous Huxley, Anne Parrish, J.B. Priestly, James Thurber, và E.B. White. Mặc dù trải qua Cuộc suy thoái và doanh số thấp, những năm 1930 đã đưa một số tác giả vô danh đến với Harper với kết quả ngoạn mục. Những nhà văn đó bao gồm Louis Bromfield, John Gunther (Inside Europe và các bộ tiếp theo), Betty Smith (A Tree Grows in Brooklyn), Thornton Wilder và Thomas Wolfe.

Đến năm 1937 ngành bán sách đã phục hồi. Khi Thế chiến II kết thúc, Harper đã mất đi Henry Hoyns (khi đó là Chủ tịch Hội đồng quản trị) sau 61 năm phục vụ tận tụy. Cuốn "The Ides of March" của Wilder là một hiện tượng, cũng như cuốn "Annie Allen "của Gwendolyn Brooks (đã giành giải Pulitzer năm 1950), và cuốn "Profiles in Courage" của Kennedy (xuất hiện lần đầu trên Tạp chí Harper năm 1956 và tiếp tục giành giải Pulitzer năm 1957). Vào tháng 4 năm 1962, Harper & Brothers sáp nhập với Row, Peterson & Company, một công ty sách giáo khoa ở Illinois và trở thành Harper & Row Publishers, Inc. Năm sau, Tổng thống Kennedy bị ám sát và vài tháng sau, theo yêu cầu của Robert Kennedy, Harper đồng ý xuất bản cuốn "Death of a President" của William Manchester với phần lớn lợi nhuận được chuyển đến Thư viện Kennedy. Thật không may, một loạt các vấn đề phát sinh vì một vài đoạn trong cuốn sách. Sau một cuộc chiến pháp lý kéo dài, cuốn sách cuối cùng đã xuất hiện vào tháng 4 năm 1967.

Trong hai thập kỷ tiếp theo, Harper & Row đã mở rộng phạm vi đáng kể thông qua việc mua lại T.Y Crowell (1977), J.B. Lippincott (1978), Zondervan Books (1988) và Scott, Foresman (1989). Giữa thời gian mở rộng này, Harper đã niêm yết với Sở giao dịch chứng khoán New York vào năm 1983. Sau đó, chính Harper đã được mua lại vào tháng 3 năm 1987 bởi tập đoàn Rupert Murdoch, News Corporation Limited, với giá 300 triệu đô la. Vài năm tiếp theo đánh dấu sự chuyển đổi dưới sự chỉ đạo của George Craig, giám đốc điều hành của tất cả các doanh nghiệp xuất bản của News Corp. Năm 1990, Harper bắt đầu một dòng bìa mềm mới, sau đó được sáp nhập với William Collins & Sons của Hoa Kỳ để thành lập HarperCollins, một công ty xuất bản quốc tế mà News Corporation hy vọng sẽ trở thành nhà xuất bản tiếng Anh lớn nhất thế giới. Sau đó là việc bán lại J.B. Lippincott, tiếp theo là việc sáp nhập Bartholomew có trụ sở tại Edinburgh với Times Books và tái tổ chức sáu chi nhánh ở Bờ Tây của Harper, sáp nhập vào HarperCollins San Francisco Group.

Đến năm tài chính 1994 (kết thúc vào ngày 30 tháng 6), HarperCollins đã đạt doanh thu toàn cầu là 1,059 tỷ đô la. Con số đó đã tăng hơn mười phần trăm đến 1,097 tỷ đô la vào năm 1995, một phần nhờ vào việc mua lại Westview Press, một nhà xuất bản học thuật và thương mại ở Colorado, và ra mắt hai thương hiệu riêng bằng tiếng Tây Ban Nha; Harper Arco Iris cho trẻ em và Harper Libros cho người lớn. Trong khi doanh số bán hàng vẫn khá nhạt nhòa với HarperCollins UK, doanh số bán sách truyền giáo của Zondervan giúp doanh số năm tăng 21%, Harper Audio tăng 26%, bộ phận trẻ em tăng doanh thu 25% với các bản phát hành mới của Chronicles of Narnia của CS Lewis và series Little House on the Prairie.

Đến nay, sau hơn 200 năm hoạt động, HarperCollins đã là một trong công ty xuất bản sách lớn nhất thế giới và mang lại những đóng góp vĩ đại cho ngành sách nói chung, và mỗi độc giả nói riêng.

Tags: