Dải Sam: Vì sao câu chuyện về cuộc đời ba người phụ nữ ở ba đất nước khác nhau lại tạo ra cơn sốt hiếm có đến vậy?
Dải Sam: Vì sao câu chuyện về cuộc đời ba người phụ nữ ở ba đất nước khác nhau lại tạo ra cơn sốt hiếm có đến vậy?
Ngay trong hai tuần đầu phát hành, tác phẩm “Dải sam” (tên gốc La Tresse) của nữ nhà văn người Pháp Laetitia Colombani đã tạo ra một cơn sốt mới khi cuốn sách này bán được 54.000 bản. Hai tháng sau đó, số ấn phẩm bán ra đã tăng thêm 15.000 bản. Tính đến tháng 3-2018, 340.000 bản của cuốn sách này được độc giả nồng nhiệt đón mua, đây thực sự là niềm ao ước của rất nhiều nhà văn.
Không những vậy “Dải sam” còn mang về cho Laetitia Colombani vô số giải thưởng danh giá như Cúp Văn học năm 2017; Quả cầu Pha-lê năm 2018…, một thành tích nổi bật trong chuỗi hoạt động nghệ thuật của cô.

 

“Dải Sam” xoay quanh số phận của ba người phụ nữ ở những quốc gia khác nhau. Thay vì thuật lại đời sống của từng nhân vật, tác giả đã lựa chọn cách kể xen kẽ từng khoảnh khắc cũng như các biến cố trong cuộc đời của những người phụ nữ ấy. Ba người phụ nữ ở ba vùng đất khác nhau và tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến nhau nhưng với cách dẫn dắt của tác giả, người đọc đã cảm nhận được sự liên quan đầy thú vị giữa họ và dần tìm ra câu trả lời vì sao tác phẩm lại có tên gọi là “Dải Sam”. 

 

 

Câu chuyện về Smita, người phụ nữ dọn nhà xí ở Ấn Độ

 

 

Tác phẩm mở đầu với câu chuyện về Smita, một người phụ nữ Ấn Độ làm nghề dọn nhà xí. “Công việc của Smita đang làm, quả thật, không một từ ngữ nào có thể dùng để miêu tả được nó. Việc của cô là đi nhặt phân của những người khác với đôi tay trần từ sáng đến tối”. Smita vẫn nhớ cái cảm giác lần đầu tiên theo mẹ làm công việc này. “Cô đã nôn thốc, nôn tháo ở vệ đường. Smita đã học cách nín thở. Giá mà cô có thể sống mà không cần thở, nhưng rõ ràng là cô cần phải thở. Hãy nhìn xem cô ho đến mức nào. Cô cũng cần phải ăn nữa chứ. Đã từ lâu Smita mất đi cảm giác ngon miệng khi ăn. Đói ư? Cô đã không còn nhớ được cảm giác đói là như thế nào nữa rồi”. Không những vậy, cô không được phép chạm mặt những người dân làng và lại càng không được phép trò chuyện với họ. Cô không chỉ là kẻ bần cùng không ai đếm xỉa đến mà cô còn phải vô hình.

Chồng cô, Nagarajan làm nghề tìm bắt chuột với hai bàn tay không. Anh cũng không thể quên ngày đầu theo bố làm công việc này. Khi đó, anh mới lên 8 tuổi. Bố Nagarajan đã dạy anh cách nhận biết những lỗ nhỏ xíu, nơi trú ẩn của loài chuột trên mặt đất. Đó là những dấu hiệu vô cùng đặc trưng. Vào ngày hôm đó, khi anh luồn tay vào trong cái lỗ. Một cơn đau nhói chạy dọc làn da, con chuột đã cắn vào phần da mỏng nhất trên tay anh. Nagarajan đã hét lên và bàn tay anh đẫm máu. Những người Dalit như Nagarajan không được nhận thù lao, họ chỉ có quyền giữ lại những gì mình kiếm được và vì thế, chuột là những gì anh được nhận. Buổi tối, gia đình anh ăn những con chuột nướng với cơm.

 

Nghề nhặt phân và nghề bắt chuột đều là những công việc “cha truyền con nối”. Như lời tác giả đã viết, đó là “một vòng tròn mà không ai có thể thoát ra. Một cái nghiệp nặng nề!”.

Vào buổi sáng nọ, Smita đã đưa ra một quyết định liều lĩnh, đó là đưa con gái 6 tuổi của cô, Lalita đến trường. Cô cho rằng, đó là cách giúp con gái cô thoát khỏi cái công việc bẩn thỉu và bị xã hội khinh rẻ.

Nhưng mọi chuyện đâu dễ dàng như những gì cô nghĩ. Dù lão thầy giáo đã nhận tiền của Smita và nhận con gái cô nhưng ngay trong ngày đến trường đầu tiên, tất cả những gì con bé Lalita nhận được chỉ là những làn roi mây đánh đập khiến làn da đứa trẻ “như bị chẻ nứt làm đôi, những vết máu vẫn còn mới đây. Sắc đỏ son tứa ra như dấu chân bindi trên trán”.

Đâu chỉ dừng lại ở đó, đứa trẻ 6 tuổi ấy còn phải hứng chịu những lời phỉ báng: “Mày sẽ chết trong đống phân như mẹ mày và bà mày. Sẽ chẳng có gì ở đây dành cho chúng mày, lũ tiện dân, thứ đồ bỏ đi của nhân loại, không có gì ngoài thứ mùi ô nhục ghê tởm đó, qua hàng thế kỉ, chỉ có phân của những kẻ khác, chất thải của thế giới này là thứ để chúng mày lượm lặt”. Đến giờ ăn trưa, lão thầy giáo còn tịch thu hộp cơm của Lalita và không cho cô bé ăn. Trước những hành động thô bạo, đầy khinh miệt, cô bé không khóc, không gào thét, không hé răng nửa lời, không cầu xin. Cô bé thật mạnh mẽ, đầy phẩm cách! 

Smita cảm thấy tự hào cho sự dũng cảm của đứa con gái bé nhỏ nhưng người phụ nữ chưa bao giờ tỏ ra yếu mềm, đầu hàng trước những cay đắng mà cuộc sống đưa lại ấy bỗng chốc trở nên nhỏ bé như chính đứa con của cô và bật khóc cho những hy vọng nhỏ nhoi vừa bị dập tắt của cô. Cô đã khao khát nhưng không thể mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con gái của cô.

Tuy vậy, Smita không bỏ cuộc. Cô đã trải qua nhiều đêm không ngủ và khi cô nghe người ta nhắc đến Chennai, vùng đất dành riêng cho những người Dalit, nơi đó có trường phổ thông và đại học. Không những vậy, tới đó, gia đình cô sẽ không phải ăn thịt chuột mỗi bữa, cô chẳng còn phải đi nhặt phân. Cô và chồng sẽ tìm được công việc mới và họ sẽ được mọi người tôn trọng. Một tương lai tươi sáng đang hiện ra trước mắt cô. Và cô đã đưa ra một quyết định táo bạo nhưng cũng vô cùng nguy hiểm: bỏ trốn.

Anh Nagarajan, chồng cô tìm mọi lý lẽ để thuyết phục vợ. Anh lo sợ, khi bị phát giác, gia đình anh sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Chắc chắn, họ sẽ chết trong mục ruỗng, chết theo cách thảm khốc nhất có thể. Người ra sẽ không bao giờ buông tha cho con gái họ.

 

Và một điều khác, họ hoàn toàn trắng tay vì họ đã trao hết số tiền tích góp còm cõi cho thầy giáo Lalita để con bé được đi học. Smita quyết định lấy lại số tiền thầy giáo Lalita đã nhận của vợ chồng cô. Cô biết vợ lão ta giấu ở đâu và cô sẽ tới để cầm đi đúng số tiền của mình, không hơn một roupie.

Smita đã kiên cường mang theo đứa con gái bỏ trốn, kể cả khi chồng cô không đi theo. Vượt qua bao khó khăn, thử thách, nỗi sợ hãi bị phát hiện trên suốt quãng đường trốn chạy, cuối cùng, cô và con gái đã an toàn đặt chân đến ga Tirupati. Smita quyết định không đến Chennai như dự kiến, cô sẽ cùng con gái đi về phía ngọn núi linh thiêng Tirumala để tạ ơn Lord Venkateshwara, vị “Chúa tể của Bảy Ngọn Đồi” – một trong những hoá thân của thần Vishnou. Người ta tin rằng, Ngài sẽ nghe thấy tất cả những lời thỉnh cầu trong đau khổ của người dân và biến những mong muốn đó thành hiện thực.

 

Khi bước chân đến Đền Thờ Vàng, Smita và con gái cũng giống như những người nghèo khổ khác, họ đã dâng lên Lord Venkateshwara thứ tài sản duy nhất của họ, đó là mái tóc. Truyền thống này vẫn được duy trì đến ngày nay dù tuổi đời của nó cũng lên tới cả hàng vạn năm. Người dân dâng lên thần linh mái tóc của họ nhằm thể hiện rằng, họ sẵn sàng hy sinh cái “tôi” của mình, chấp nhận xuất hiện trước Chúa trời trong hình hài khiêm nhường nhất, trần trụi nhất. Smita nhìn thấy dưới chân mình một mớ tóc đen huyền, đó từng là một thời trở một phần của cô nhưng giờ đã trở thành ký ức. Cô cảm nhận tâm hồn và thể xác mình hoàn toàn tinh khiết, như được ban phước lành và đã sẵn sàng cho một tương lai tươi sáng ở phía trước.

Tác giả không kể tiếp đoạn sau của cuộc đời Smita và con gái của họ ra sao nhưng bà đã ưu ái dành những lời văn tràn đầy hy vọng để kết thúc câu chuyện của Smita như sau: “Khi rời khỏi Điện Thờ Vàng, tay nắm chặt tay con gái, Smita không cảm thấy buồn bởi cô biết chắc một điều, trước lễ vật của họ, Chúa Trời sẽ biết cách để tỏ lòng đền đáp”.

 

 

Ai sẽ giúp Giulia cứu lấy xưởng làm tóc bên bờ vực phá sản của gia đình cô?

 

 

Mái tóc của hai mẹ con Smita đã vượt qua nhiều đại đại dương và bao vùng đất để đến với xưởng làm tóc của gia đình cô gái Giulia (sống ở Sicillia, nước Ý). Chính mái tóc của những người phụ nữ như Smita đã mang đến cuộc sống mới cho xưởng làm tóc lâu đời ngấp nghé bờ vực phá sản của gia đình Giulia cũng như mối tình rạo rực, đầy yêu thương giữa cô và người đàn ông nhập cư, không xu dính túi.

 

Có thể nói, tác giả đã dành những trang văn vô cùng lãng mạn để miêu tả chuyện tình giữa Giulia và người đàn ông khiến cô chưa bao giờ cảm thấy bối rối đến thế, Kamaljit Singh. Lần đầu tiên cô gặp Kamal là khi anh xuất hiện trong một lễ diễu hành trên phố. Và lần đầu tiên họ bắt chuyện với nhau là khi cô vô tình gặp lại anh tại một thư viện. Lần này, cô đã bạo dạn tiến gần đến anh và ngỏ ý giúp anh lựa chọn một cuốn sách cải thiện khả năng viết bằng tiếng Ý. Chàng thanh niên da sẫm màu Kamaljit Singh đã cầm lấy cuốn sách và không quên cảm ơn cô trước khi ra về.

Ngày hôm sau, Giulia quay trở lại thư viện và ấp ủ niềm hy vọng thầm kín sẽ được nhìn thấy anh thêm một lần nữa. Và điều mong ước ấy đã hiện ra trước mắt cô. Cô thật sự bất ngờ và trái tim cô như ngừng đập khi nhìn thấy chàng trai kia đang đứng đúng chỗ họ trò chuyện ngày hôm và vô tình ngước mắt về phía cô như thể anh đang chờ cô tới. Thì ra, lý do anh đến đây là bởi, anh muốn mang tặng cô một chai dầu ô liu ở trang trại anh làm việc để cảm ơn cô. Cảm động trước sự chu đáo, dịu dàng và phẩm cách của anh, Giulia ngỏ ý mời anh đi dạo vài bước cùng cô trên con đập chắn sóng.

Kể từ sau ngày hôm đó, cả hai gặp nhau mỗi ngày. Họ hẹn nhau ở thư viện, cùng nhau đi ăn trưa và cuối cùng là đi dạo bên bờ biển. Điều khiến cô vừa tò mò vừa thích thú ở người đàn ông này là vì anh không giống như những người đàn ông trong gia đình cô. Nét tính cách phổ biến của họ là gia trưởng, dễ nổi nóng và ngoan cố. 

 

Chuyện tình của họ ngày càng đi xa hơn, cho đến một ngày, Giulia dẫn anh đến một cái hang, không ai biết tới. Cô muốn chỉ cho anh thấy, đó là nơi thỉnh thoảng cô thường tìm đến để đọc sách. Đó thực sự là nơi yên tĩnh, ẩm ướt và tối tăm. Và rồi chuyện đó cũng đã đến!

“Không nói một lời, Giulia cởi quần áo trên người. Chiếc váy mùa hè của cô tuột xuống chân. Kamal đứng bất động, sững người lại như đang đứng trước một bó hoa mà người ta ngần ngại không dám hái bởi e sợ sẽ làm nó trầy xước. Giulia nắm lấy tay anh, bằng một cử chỉ còn hơn là một sự khích lệ, nó là một lời mời gọi. Chậm rãi anh tháo chiếc khăn quấn trên đầu, bỏ chiếc lược đang cầm tù mái tóc mình xuống… Anh hôn cô rất nhẹ nhàng, như khi người ta hôn đôi bàn chân của một vị thần mà họ tôn sùng, chỉ dám chạm vừa đủ nhẹ vào đó.

… Kamal làm tình như khi người ta cầu nguyện, hai mắt nhắm nghiền, như thể cả cuộc đời anh phụ thuộc vào đó.

Sau khi yêu nhau, họ cứ thế cuốn lấy nhau trong yên lặng hồi lâu. Ở xưởng, các bà các cô vẫn cười nhạo về những người đàn ông hễ xong việc là ngủ liền một mạch, nhưng Kaml không giống như họ. Anh giữ Giulia áp sát vào mình như một kho báu mà anh không nỡ rời xa. Cô có thể cứ ở yên như thế hàng giờ liền, cơ thể nóng bỏng của anh dán chặt vào người cô, làn da sáng của cô sát bên làn da mịn màng và sẫm màu của anh”.

Ngày qua ngày, cô càng cảm thấy khó khăn khi phải tạm biệt anh sau mỗi lần hẹn và thầm nghĩ rằng, cuộc sống sẽ thật dịu êm khi mỗi ngày trôi qua, cô luôn được ở bên cạnh, lắng nghe và làm tình cùng anh.

Sóng gió bắt đầu xuất hiện trong cuộc tình giữa hai người khi xưởng làm tóc của gia đình Giulia bị phá sản. Mẹ cô muốn cô lấy Gino Battagliola vì cậu ta đã đem lòng yêu Giulia từ lâu. Quan trọng hơn, gia đình cậu ta sở hữu vô số cửa tiệm làm tóc trên khắp cả nước nên cậu ta có thể mua lại quyền cầm cố căn nhà cho Giulia. Cuộc hôn nhân này dường như là lựa chọn duy nhất để cứu lấy gia đình cô khỏi cơn nguy ngập. Giulia đã viết thư từ biệt Kamal và  đặt nó trong cái hang mà họ vẫn thường gặp nhau.

Đọc được bức thư, Kamal đã lao đến nhà Giulia ngay trong đêm để nói với cô rằng, anh đã tìm ra cách vực dậy sản nghiệp của gia đình cô. Cô chưa bao giờ thấy anh hào hứng chia sẻ ý tưởng đến thế. Anh kể với cô rằng, người Hindu ở đất nước Ấn Độ của anh thường cắt tóc và coi mái tóc là món quà dâng lên thần linh. Những mái tóc của người cầu nguyện được thu nhặt và bán lại trong các khu chợ. Và nếu nguyên liệu ở Ý cạn kiệt, Giulia có thể nhập khẩu những mái tóc này ở Ấn Độ và sau đó nhuộm lại màu cho chúng. Kamal khẳng định với Giulia rằng, anh có thể giúp cô giao tiếp với những người Ấn Độ quê hương anh. Nghe những gì Kamal nói, Giulia quá đỗi hạnh phúc. Cô thầm nghĩ, anh quả là món quà vô cùng quý giá mà Trời đã ban tặng cho cô và dường như anh là cầu nối giữa Ấn Độ và nước Ý.

 

 

Bộ tóc giả sẽ chỉ là bộ tóc giả nhưng với Sarah, đó lại là một phép màu kỳ diệu

 

 

Từ xưởng làm tóc của Giulia, những bộ tóc nhiều màu sắc đã được bày bán ở khắp châu Âu. Với nhiều người, bộ tóc giả có lẽ chỉ là một món đồ trang trí nhưng với những người phụ nữ như Sarah, người mắc bệnh ung thư vú và phải điều trị bằng xạ trị thì đó là một phép màu.

 

Sarah vốn là một luật sư người Canada tài năng, thành đạt và nổi tiếng. Cô thực sự hài lòng với cuộc sống ung dung, tự do của mình. Tuy vậy, khi bệnh ung thư ập đến với cô, đồng nghiệp luôn nhìn cô bằng đôi mắt thương hại, nghi ngờ khả năng làm việc của cô và tìm cách chơi xấu cô. Cuối cùng, cô đã nghỉ việc và rơi vào tình trạng gần như tuyệt vọng và cùng quẫn. Nhưng khi bước chân đến một cửa tiệm trong con phố tuyết phủ, cô có cảm giác như “có điều gì đó đang chờ đợi cô ở nơi đó. Rằng cô đã có hẹn ở đó từ rất lâu rồi”. Người phụ nữ chủ cửa hàng đón chào cô bằng một sự “tinh tế xuất sắc” và hiểu Sarah đang muốn tìm kiếm thứ gì.

Người phụ nữ ấy mang đến trước mặt Sarah ba chiếc hộp đựng các-tông. Chiếc hộp đầu tiên đựng một bộ tóc giả màu đỏ. Đó là sản phẩm nhân tạo và được sản xuất ở Nhật. Sarah đeo thử nhưng nó không làm cô vừa lòng. Ngay sau đó, người phụ nữ đã mở chiếc hộp thứ hai và đưa ra cho cô một bộ tóc thuộc dạng “cực kỳ thoải mái”. Tuy nhiên, bộ tóc đó chỉ khiến Sarah im lặng hồi lâu và biết rằng, sản phẩm này không dành cho cô.

Chỉ khi người chủ cửa tiệm mở chiếc hộp thứ ba, chứa đựng một sản phẩm quý hiếm và đắt tiền, Sarah mới cảm thấy, đó chính là mái tóc mà cô tìm kiếm. Đó là những sợi tóc đến từ Ấn Độ, được xử lý, tẩy màu và nhuộm màu ở Sicile (Ý). Những người thợ cần đến 80.000 giờ làm việc để có được 150.000 sợi tóc. Mái tóc đó thực sự là một tuyệt tác. “Cô chạm vào những lọn tóc, vén chúng, uốn cong cho chúng… Chúng ôm lấy khuôn mặt hình ô-van của cô rồi buông lơi. Sarah luồn tay mình vào chúng, vuốt ve chúng, chải chuốt chúng, thấy chúng hợp tác đến nỗi cô gần như biết ơn về điều đó. Thật khó mà nhận ra được những sợi tóc xa lạ với cô lại trở thành của cô, điều chỉnh theo khuôn mặt của cô, dáng hình cô, đường nét của cô”.

Mang mái tóc mềm mại, mượt mà đó, Sarah như tìm ra một cuộc sống mới cho mình. Cô tự nhủ, khi căn bệnh ung thư buông tha cô, cô sẽ tự thành lập văn phòng riêng, đấu tranh và bảo vệ quyền lợi cho những người bị đối xử bất công. Cô sẽ tận hưởng những thời khắc vui vẻ bên các con của cô: đón chúng về nhà sau giờ học, tổ chức sinh nhật cùng chúng.

Ra khỏi cửa tiệm bán tóc giả đó, Sarah thầm cảm ơn hai người phụ nữ: một đến từ Ấn Độ, người đã cho cô những sợi tóc này và một người phụ nữ nữa ở Ý, người đã kiên nhẫn gỡ rối, chải chuốt và đem đến một sản phẩm tuyệt hảo mà cô đang đeo. Cô cảm giác như cả thế giới như đang giúp cô vượt qua cơn bạo bệnh này. Đúng như lời của Talmud: “Ai cứu rỗi một cuộc đời sẽ cứu rỗi cả thế giới”.

Tác phẩm khép lại với hình ảnh nụ cười của Sarah, nụ cười ẩn chứa niềm tin tưởng, mộng ước, niềm hy vọng vào tương lai và tình yêu cuộc sống tràn đầy trong tâm hồn Sarah.

Gấp trang sách lại, có lẽ điều để lại ấn tượng rõ nhất trong lòng độc giả chính là những cảm xúc ở ba câu chuyện của ba người phụ nữ mà nhà văn Laetitia Colombani đã mang lại cho chúng ta. Sợi chỉ mảnh mai tựa như sợi tóc đã gắn kết ba người phụ nữ ấy với nhau. Người phụ nữ Ấn Độ dâng lên thần linh mái tóc của mình và tin tưởng thần linh sẽ ở bên cô đồng thời giúp cô thực hiện những ước nguyện của cô. Những sợi tóc đó lại vượt ngàn trùng xa xôi để đến xưởng làm tóc của một người phụ nữ Ý, cứu gia đình cô khỏi bờ vực phá sản. Và cuối cùng, mái tóc giả, thứ sản phẩm tuyệt tác ấy đã tới và lấy lại niềm khát khao sống cho người phụ nữ Canada đang tuyệt vọng với căn bệnh ung thư.

“Dải Sam” tượng trưng cho quyết tâm tự giải thoát mình khỏi cuộc sống bần hàn, tủi cực của Smita. “Dải Sam” cũng là hình ảnh tượng trưng cho nỗ lực của Giulia nhằm khôi phục gia tài dòng họ. “Dải Sam” còn là biểu tượng cho một khởi đầu mới đối với Sarah. Cô đã tìm thấy một cuộc sống mà cô được là chính mình…

Trên tất cả, tác giả đã truyền đi thông điệp rằng, cuộc đời thật lắm đắng cay, nghiệt ngã. Bạn đầu hàng số phận, bạn chỉ là kẻ thua cuộc. Nếu bạn vượt lên hoàn cảnh, bạn sẽ tự cứu lấy mình và là người chiến thắng.

Minh Phương

Tags: